In trang này
Chủ nhật, 19 Tháng 11 2017 13:36

Tổng quan về khủng hoảng nợ công

1. Khái niệm khủng hoảng nợ công

Khủng hoảng nợ công được định nghĩa là các vấn đề về tài chính và kinh tế xảy ra do các quốc gia mất khả năng trả các khoản nợ của chính phủ hoặc các khoản nợ do chính phủ bảo lãnh. Khủng hoảng nợ công bùng nổ khi khoản nợ của chính phủ đã ở mức không an toàn so với quy mô nền kinh tế đồng thời nền kinh tế đạt mức tăng trưởng thấp.

Khủng hoảng nợ công thường xuất hiện với những dấu hiệu cơ bản như sau:

- Lãi suất trái phiếu chính phủ tăng mạnh, việc phát hành thêm trái phiếu trở nên khó khăn.

- Thâm hụt ngân sách lớn, nợ công vượt ngưỡng an toàn cho phép và chính phủ không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.

- Chính phủ phải kêu gọi hỗ trợ tài chính từ các quốc gia khác và các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế.

- Hệ thống thể chế, giám sát tài chính không theo kịp sự biến động của thị trường tài chính.

- Lòng tin của nhà đầu tư cũng như công chúng giảm sút, dẫn đến tình trạng thoái lui đầu tư và nguy cơ xảy ra các cuộc đình công, biểu tình.

2. Các hình thức khủng hoảng nợ công

Cho đến nay, Quỹ Tiền tệ quốc tế đã tổng hợp ba hình thức chủ yếu của khủng hoảng nợ ở quy mô quốc gia, đó là khi quốc gia đó bị vỡ nợ, có khoản nợ xấu lớn và có khoản vay quy mô lớn từ Quỹ Tiền tệ quốc tế.

a) Bị vỡ nợ

Yếu tố này được các tổ chức định mức tín dụng xây dựng dựa vào khả năng không chi trả được nợ của một quốc gia. Tổ chức định mức tín dụng Moody's năm 2003 đã xác định các biểu hiện của một quốc gia vỡ nợ theo các tiêu chí:

Thứ nhất, có sự chậm trễ trong thanh toán lãi và/hoặc gốc, ngay cả khi việc thanh toán được thực hiện trong thời gian ân hạn.

Thứ hai, việc hoán đổi nợ xảy ra, trong đó quốc gia phát hành trái phiếu đề nghị người nắm giữ trái phiếu một khoản nợ mới, hoặc một gói chứng khoán mới tương đương nghĩa vụ tài chính giảm bớt. Khi đó, việc hoán đổi nợ có mục đích rõ ràng là giúp quốc gia đi vay tránh khả năng vỡ nợ

Thứ ba, đối với vay nợ bằng phát hành trái phiếu, tín phiếu, hối phiếu bằng nội tệ hoặc ngoại tệ, mỗi khoản nợ của quốc gia phát hành được coi là không có khả năng chi trả khi việc thanh toán nợ hằng năm không được thực hiện vào ngày đáo hạn, hoặc khi đề nghị hoán đổi khoản nợ mới bao hàm các điều kiện kém thuận lợi hơn so với lần phát hành ban đầu.

Thứ tư, có các khoản vay ngân hàng được gia hạn cuối cùng bị chiết khấu một khoản so với giá trị ban đầu hay những thỏa thuận khác kèm theo đề nghị hoán đổi nợ, hoán đổi nợ/vốn chủ sở hữu liên quan tới các chương trình tư nhân hóa của chính phủ, và/hoặc mua lại băng tiền mặt. Các giao dịch này được coi là dâu hiệu vỡ nợ bởi chúng bao gồm những điều kiện kém thuận lợi hơn so với ban đầu.

-Thứ năm, Chính phủ thoái thác hoàn toàn trách nhiệm nợ.

Trên đây là trích dẫn của tài liệu, để xem toàn văn tài liệu xin quý vị tải xuống tệp đính kèm.