In trang này
Chủ nhật, 23 Tháng 11 2014 00:00

Kinh nghiệm quốc tế về các phương thức xã hội hóa y tế

Ảnh minh họa Ảnh minh họa

1. Kinh nghiệm về y tế tư nhân

Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, YTTN được huy động tham gia cung cấp dịch vụ y tế.

Về lý do, YTTN ra đời do các lý do cơ bản: NSNN hạn chế, mức sống người dân tăng lên và nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế cũng tăng nên y tế nhà nước không đáp ứng đủ nhu cầu của người dân về KCB [91]. Sự phát triển khoa học kỹ thuật y học đã làm cho giá thành khám chữa bệnh lên rất cao khiến cho kinh phí của Nhà nước đơn thuần không đủ bảo đảm. Các nước như Anh Quốc. Thuỵ Điển, Canada, Trung Quốc và các nước XHCN Liên Xô và Đông Âu trước đây v. v.. vốn có một hệ thống cung ứng khám chữa bệnh nhà nước miễn phí cũng đã phải chia sẻ chi phí y tế giữa Nhà nước và cộng đồng [48]. Kể cả ở các nước phát triển, NSNN dành cho y tế vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu người dân. Tại Canada, phần lớn dịch vụ y tế được phân phối thông qua kênh y tế tư nhân. Hàng năm Chính phủ Mỹ chỉ đảm bảo khoảng 40% tổng chi phí CSSK, phần còn lại là huy động từ các nguồn kinh phí của tư nhân, của các tổ chức, các doanh nghiệp hoặc từ tiền bảo hiểm.

Về hình thức, ở các nước đang phát triển, luật pháp cho phép bác sỹ làm ngoài giờ hành chính. Ngoài ra, hành nghề y tư nhân còn tồn tại với những hình thức phổ biến như lang y, bà đỡ, người bán thuốc rong, thầy mo. Ở các nước phát triển, y tế tư nhân chủ yếu tồn tại dưới dạng bệnh viện tư, phòng khám tư. Nhiều nước tỷ lệ bệnh viện tư chiếm tới 70-80% trong tổng số các bệnh viện. Tại Malaysia, toàn quốc có 200 bệnh viện lớn, trong đó có đến 160 bệnh viện do tư nhân đầu tư và quản lý.

Về mặt loại hình dịch vụ, ở các nước đang phát triển, tư nhân chủ yếu cung cấp  dịch vụ KCB ngoại trú, còn điều trị nội trú chủ yếu vẫn do nhà nước đảm nhiệm. Ở Italia, có rất nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa hợp tác với các nhà cung ứng dich vụ y tế lớn chẳng hạn như các dịch vụ chăm sóc người già, trẻ em tại nhà, chăm sóc bệnh nhân sau khi ra viện, hỗ trợ người nghiện, tâm thần…và những hợp tác đó rất quan trọng và hiệu quả. Khu vực tư nhân được tham gia cung cấp nhiều dịch vụ phụ trợ như vệ sinh, giặt là, ăn uống, bán thuốc…và cả dịch vụ y tế cộng đồng như tiêm chủng.Với các nước phát triển, ở các bệnh viện tư, với sự giám sát ngặt nghèo của chính phủ, họ có thể và được phép làm tất cả các phương pháp điều trị tiên tiến nhất như ở các bệnh viện công như: phẫu thuật tim, phẫu thuật thần kinh, cấy và ghép cơ quan…

Một số mô hình y tế tư nhân cơ bản và những tác động của nó

Mô hình hệ thống YTTN điển hình trên thế giới là mô hình của hệ thống y tế Mỹ. Theo mô hình này, nhà nước chỉ có trách nhiệm chăm sóc cho người nghèo (Medicaid) và cho người già (Medicare). Hệ thống y tế này chủ yếu dựa trên cung cấp tư nhân. Hiện nay, nước Mỹ trở thành quốc gia có chi phí y tế đắt đỏ nhất thế giới (với chi phí y tế bình quân đầu người trên 7000 USD/năm) với 45 triệu người Mỹ (15% dân số) rất khó khăn trong tiếp cận dịch vụ y tế do không có bảo hiểm y tế. Các nhà lãnh đạo Mỹ ngày càng nhận thấy sự bất cập của hệ thống y tế chủ yếu dựa vào khu vực tư này. Theo quan điểm của Tổng thống Obama, cần cải cách hệ thống y tế của nước Mỹ, có nghĩa là không thể phó mặc cho thị trường và cần phải có sự can thiệp mạnh hơn nữa của Chính phủ, ông viết: “thị trường tự nó không giải quyết được các vấn đề y tế của chúng ta – một phần vì thị trường đã bất lực trong việc tạo ra một sân chơi đủ lớn để giảm mức phí bảo hiểm tới mức mọi người dân có thể chịu đựng được, một phần chăm sóc sức khỏe không như những sản phẩm hoặc dịch vụ khác, khi con của bạn bị ốm, bạn không thể đi lòng vòng để mặc cả chọn lấy giá hời nhất”.

Mô hình YTTN cũng được sử dụng ở hầu hết các quốc gia khác. YTTN tại các nước tư bản phát triển được chia thành hai nhóm, một nhóm bao gồm các cơ sở YTTN hoạt động không vì lợi nhuận (chiếm đa số) và nhóm còn lại là các cơ sở YTTN kinh doanh vì lợi nhuận (chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong toàn bộ hệ thống cung ứng dịch vụ y tế). Có nhiều bằng chứng chứng tỏ rằng hệ thống cung ứng dịch vụ khám chữa bệnh tư nhân kinh doanh vì lợi nhuận không đáp ứng được mục tiêu xây dựng một hệ thống y tế theo định hướng công bằng và hiệu quả.

Chi phí ở y tế tư nhân vì lợi nhuận đắt hơn: Đã có nhiều nghiên cứu so sánh chi phí y tế giữa các cơ sở y tế vì lợi nhuận (tư nhân) và không vì lợi nhuận (bệnh viện công hoặc tư hoạt động không vì lợi nhuận). Các nghiên cứu đều cho kết luận giống nhau: chi phí điều trị tại các cơ sở y tế kinh doanh vì lợi nhuận đắt hơn so với các cơ sở y tế hoạt động phi lợi nhuận từ 11,2% đến 19% và có những dịch vụ cao hơn tới 91%. Chi phí y tế ở các quốc gia có hệ thống y tế tư nhân phát triển cũng cao hơn các quốc gia có hệ thống y tế công (trích từ Dyer,O .2004).

Chất lượng dịch vụ KCB ở khu vực tư nhân vì lợi nhuận kém hơn khu vực y tế công: Mặc dù chi phí của khu vực YTTN kinh doanh vì lợi nhuận cao hơn, nhưng chất lượng dịch vụ KCB không cao hơn. Một nghiên cứu đã chỉ ra con số thống kê:   Trong số 149 công trình nghiên cứu về khả năng tiếp cận, chất lượng dịch vụ và chi phí hiệu quả giữa khu vực y tế công, y tế tư nhân vì lợi nhuận và YTTN phi lợi nhuận, có 88 nghiên cứu kết luận khu vực y tế phi lợi nhuận phục vụ tốt hơn; 43 nghiên cứu không tìm thấy sự khác biệt. Chỉ có 18 nghiên cứu cho rằng các trung tâm y tế kinh doanh vì lợi nhuận phục vụ tốt hơn. Các nghiên cứu khác cũng cho thấy bệnh nhân từ các bệnh viện công và bệnh viện tư không vị lợi có tỷ lệ tử vong thấp hơn các bệnh viện tư vị lợi. Ngoài ra, vấn đề lạm dụng chỉ định các dịch vụ KCB không cần thiết và các dịch vụ KCB có tác dụng phụ cũng nhiều hơn ở khu vực y tế tư nhân vì lợi nhuận...

Trên đây là trích dẫn của tài liệu, để xem toàn văn tài liệu xin quý vị tải xuống tệp đính kèm. 

Sửa đổi lần cuối Thứ năm, 08 Tháng 1 2015 04:02