Một trong những câu hỏi trọng tâm trong nền kinh tế đổi mới và học tập là: Có phải các thị trường tham gia quá ít vào nghiên cứu và học tập, vai trò của thị trường với việc phát triển một xã hội học tập? Nhận định trọng tâm rằng kiến thức là một lợi ích chung cho thấy rằng câu trả lởi là đúng. Và quả thực, rất nhiều trường hợp mà các thị trường đầu tư quá ít trong nghiên cứu cơ bản và việc nghiên cứu này phần nào được cho rằng đó là việc của Nhà nước. Tuy nhiên, đối với những nghiên cứu ứng dụng thì hầu hết các thất bại thị trường (ví dụ, những thất bại phát sinh từ sự không hoàn hảo cho đầu tư nghiên cứu và phát triển ) cho rằng trong thực tế có nhiều sự thiếu đầu tư vào nghiên cứu và học tập, vấn đề liên quan đến những gì có trong trường hợp ở thế giới tốt nhất, và thậm chí liên quan đến thế giới tốt nhất, trong đó có rất nhiều hạn chế về các loại biện pháp can thiệp của chính phủ có thể thực hiện. Những cuộc thảo luận của các nhà kinh tế và xã hội học cũng đã làm rõ rằng những vấn để ngày càng phức tạp hơn; trong một số trường hợp, lợi ích cá nhân có thể vượt quá lợi ích xã hội, trong đó có trường hợp có thể có quá nhiều nghiên cứu - và nghiên cứu đặc biệt quá mức tại các lĩnh vực nhất định.
Trong các thị trường có sự cạnh tranh hoàn hảo, một trong những mục tiêu của nghiên cứu là tìm kiếm đặc lợi - đạt được đặc lợi độc quyền từ các bằng sáng chế hoặc đơn giản là từ lợi thế người đi đầu. Thực tế là các đầu tư vào đổi mới được định hướng bởi tìm kiếm đặc lợi cho thấy rằng tìm kiếm đặc lợi không chỉ cần có tác động xấu đến nền kinh tế. Nó có thể được chuyển hướng tới nhiều mục đích kiến tạo hơn . Nhưng như các khu vực khác, tìm kiếm đặc lợi ở đây cũng có thể dẫn đến biến dạng nền kinh tế, khi các doanh nghiệp nghiên cứu trực tiếp để nắm bắt một phần lợi nhuận của các đối thủ, trong các phát minh ăn theo.
Có các lực lượng khác bù đắp xu hướng cho các nền kinh tế thị trường đầu tư ít vào học tập và nghiên cứu từ lâu ghi nhiều xu hướng của các doanh nhân là tự tin quá mức. Họ tin tưởng một cách hệ thống rằng lợi nhuận của các hoạt động sáng tạo của họ sẽ tốn hơn những gì mình có, mà xác suất thất bại là nhỏ hơn. Các doanh nhân phải có niềm tin vào bản thân và khả năng tương đối của họ. Nhưng nếu điều này là như vậy có nghĩa là mức độ đầu tư (bao gồm cả đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, học tập), đặc biệt, là cả những lĩnh vực “thú vị” cụ thế, có thể là quá mức - quá mức cho lợi ích cá nhân, mặc dù không nhất thiết phải từ quan điểm của lợi ích xã hội. Thật vậy việc này phục vụ cho một phần đối trọng với việc thiếu đầu tư phát sinh từ những thất bại thị trường mà các tác giả chú trọng trong chương này.
Trên thực tế, một số điều dường như không hợp lý có thể được giải thích trong các mô hình thông tin không hoản hảo và bất đối xứng, sử dụng mô hình tương tự với những điều giải thích lời nguyền của người chiến thắng trong cuộc đấu giá này. Là những người đã thu được những thông tin thuận lợi nhất mà trả giá cao nhất- nhưng từ đó, trong việc xây dựng giá, họ cần phải tính đến điều mà người khác đã thu được thông tin đó là chưa thuận lợi. Vì vậy là quá mức cho quyết định để thực hiện bát kỳ dự án nào, bao gồm cả một dự án nghiên cứu).
Về vấn đề quyền sở hữu trí tuệ, phầnlớn các cuộc thảo luận phổ biến về sự đổi mới tập trung vào hậu quả của sự phù hợp không hoàn hảo của lợi ích xã hội đối với đổi mới. Cho rằng đây xem là vấn đề trọng tâm , đó là điều tự nhiên rằng sự chú ý tập chung vào các chính sách của chính phủ để cải thiện sự phù hợp, thông qua các quyền sở hữu trí tuệ mạnh mẽ
Thứ hai, như đã lưu ý, những nỗ lực để khắc phục vấn đề này thông qua bảo vệ bằng sáng chế mạnh mẽ không chỉ sử dụng không hợp lý kiến thức mà còn đầu tư quá mức, đặc biệt là trong một số loại lĩnh nghiên cứu cụ thế. Các thị trường có thế không chỉ phụ thuộc quá nhiều hay quá ít vào nghiên cứu, chúng có thể đầu tư quá nhiều trong một số loại nghiên cứu và quá ít ở những lĩnh vực khác (đặc biệt là trong nghiên cứu cơ bản).
Trong thực tế, bản thân hệ thống bằng sáng chế có thể dẫn đến nhiều biến dạng hơn nữa trong thị trường – với các chỗ đó sở hữu trí tuệ mạnh mẽ hơn (và đặc biệt là thiết kế kém) thực sự làm chậm nhịp độ chung của sự đổi mới về tăng cường sự kém hiệu quả của quá trình đổi mới thị trường.
Mặt khác, đối với các mô hình nghiên cứu và học tập, như đã nói, đây không chỉ là một vấn đề về mức dộ nghiên cứu và phát triển hay học tập. có thể có quá ít sự chấp nhận một số loại rủi ro, quả nhiều những thứ khác; chu ý quá nhiều đến sự tương quan trong một số hoàn cảnh, quá ít ở những hoàn cảnh khác.
Thậm chí còn tồi hơn nữa là hưởng nghiên cứu bị bóp méo. Rõ ràng là quá ít nghiên cứu nhằm giảm tác động môi trường (những ảnh hưởng liên quan đến sự nóng lên toàn cầu) - không có gì đáng ngạc nhiên, vì sự thiếu vắng của giá cả liên quan đến khí thải carbon - và chú ý quá ít đến tình trạng thất nghiệp và hậu quả phân phôi của sự đổi mới.
Nhà kinh tế học Schumpeter cho rằng sự cạnh tranh để trở thành doanh nghiệp chiếm ưu thế sẽ tạo ra đổi mới nhờ cấp độ cao (có thế là một cấp độ “đúng đắn”). Đồng thời, ông cho rằng sức mạnh độc quyền chi có tính chất tạm thời và được kiếm chứng lại thông qua tiếm lực cạnh tranh và chính mối đe dọa cạnh tranh nhân có thể dẫn đến đổi mới nhiều hơn, lại là nguyên nhân cản trở sự gia nhập thị trường có thể phát huy hiệu quả đủ để nhà độc quyền có lợi ích cao.
Mặc dù lợi nhuận cao là cơ sở tài trợ vốn cho các chi phí chìm về phần phục vụ nghiên cứu và phát triển về phần mềm phục vụ không hoàn hảo nhưng đây không phải là cách duy nhất cho các nghiên cứu. Có thể nhận thấy đó chính là cách công bằng nhất ít gây biến dạng nhất. Đồng thời, luôn phát sinh chi phí cao liên quan đến các độc quyền thậm chí cho dù chỉ độc quyền tạm thời. Trong một số trường hợp, nếu dự trữ lợi nhuận thặng dư cho các chủ sở hữu của công ty độc quyền, thì sẽ phải đầu tư nhiều lợi nhuận hơn cho tiếp thu và quảng cáo so với đầu tư vào các nghiên cứu. trong đó cả tiếp thị. Quảng cáo và nghiên cứu đều tập trung nhiều hơn vào tăng cường hơn nữa sức mạnh thị trường (giảm độ co giãn câu, tăng chi phí chuyển đổi. gây bất lợi cho đối thủ) hơn là tăng phúc lợi xã hội và phúc lợi người tiêu dùng.
Hơn nữa. Schumpeter, để ủng hộ cho chủ nghĩa độc quyền, đã không xét đến hiệu ứng liên ngành, góp phần vào “trạng thái thờ ơ thường thấy ở công ty độc quyền.
Đổi mới và nâng cao phúc lợi cá nhân và xã hội
Một số quan điểm kinh tế cho rằng lý thuyết cạnh tranh sẽ tạo ra hiệu quả kinh tế chung cho toàn xã hội, mọi người sẽ được hưởng lợi từ chủ nghĩa tư bản năng động cung hoàn toàn không hợp lý. Chủ nghĩa tư bản thế kỷ XXI chứng minh rằng sự bất bình đẳng có thể tăng nhanh đến mức khiến cho cuộc sống của người dân trở nên khốn khó hơn: Tại Hoa Kỳ, thu nhập trung bình hộ gia đình đã và đang giảm mạnh, và tính đến khi cuốn sách này được công bố trước báo giới, thì sẽ thấp hơn (do ảnh hưởng của lạm phát) so với 25 năm trước. Và điều này vẫn chưa bao gồm sự “mất” cảm giác hạnh phúc do mất an ninh trật tự và suy thoái môi trường. Những người vô gia cư được cứu trợ do “đổi mới” hệ thống tài chính của Hoa Kỹ có thể sẽ “thở phào” đôi chút trong tâm trí mòn mỏi với hy vọng rằng con cháu của mình sẽ có cuộc sống khấm khá hơn. (Ngày nay, thu nhập trung bình của những nam công nhân làm việc toàn thời gian thấp hơn so với 40 năm trước, hiện thực này dã triệt tiêu niềm tin vào kinh tế học chảy xuống”).
Tuy nhiên, việc đổi mới của thị trường sẽ ít chú ý dến hiệu ứng phân bổ rộng và tác động đối với tinh trạng thất nghiệp. Thị trường (không bị kiểm soát bởi chỉ đạo của chính phủ) sẽ tạo ra đổi mới cấp độ cao nhất và điều đó sẽ tạo ra được phúc lợi xã hội là mức độ cao nhất. Giả thuyết được đặt ra đó là có thể có người chiến thắng và kẻ thua cuộc, nhưng xã hội đóng vai trò là nguồn lợi ích tổng, có nghĩa là người thắng có thể bù trừ nhiều hơn cho kẻ thua cuộc. Dựa trên giả thuyết này, vẫn có trường phái cho rằng không có kẻ thua cuộc, và bằng cách nào đó những lợi ích sẽ “chảy xuống” và dành cho tất cả mọi người. Không có bất kỳ người nào có kinh nghiệm đưa ra ý kiến ủng hộ trường phái kinh tế học chảy xuống đang chiếm ưu thế - rõ ràng là, xin được phép nhắc lại, cuộc sống của rất nhiều người đã trở nên khốn khó hơn do quá trình đổi mới, mà dường như quá trình này làm tăn GDP.
Một trưởng phái yếu thế hơn cho rằng. cuối cùng muốn được hưởng lợi ích từ tốc độ tăng trưởng kinh tế cao,sự bất bình đẳng không gia tăng. Nhưng trong những năm gần đây, như đã nhìn nhận, tăng trương tại Hoa Kỳ có liên quan chặt chẽ với sự gia tăng bất bình đẳng và nhanh đến mức mà phần lớn người dân - trong một số trường hợp là đại đa số người dân - trong thời gian dài đã thấy rằng mức sống của họ suy giảm nghiêm trọng, và chính sự gia tăng bất bình đẳng có thế là, ít nhất là một phần, hậu quả của đổi mới, và là cách thức thị trường quản lý hoạt động đổi mới. (Các vấn đề này có thể trở nên tốt hơn tốc độ hơn tùy theo chính sách của chính phủ; gần đây nhất, một số quốc gia có vẻ như đã giữ vững lập trưởng cho rằng, để cạnh tranh sẽ phải cắt giảm bớt các chương trình xã hội, vì vậy những người ở dưới đáy của xã hội và tầng lớp trung lưu thậm chí sẽ phải chịu nhiều tổn thất hơn).
Vì vậy, đổi mới theo hướng tiết kiệm lao động nội sinh gần như chắc chắn góp phần vào gia tăng bất bình đẳng ở nhiều nước công nghiệp tiên tiến. Sự can thiệp của chính phủ vào nghiên cứu, học tập trong xã hội nhằm định hướng lại quá trình đổi mới có thể tăng khả năng đổi mới đem lại lợi nhuận hơn và ít thất bại hơn. Điều này được thực hiện thông qua chương trình nghiên cứu của chính phủ (dựa trên nghiên cứu cơ bản) và thời hạn thu được kết quả từ chương trình nghiên cứu này: thông qua cấu trúc của luật sở hữu trí tuệ (ví dụ, sản phẩm cần phải được công bố, sản phẩm cần được cấp bằng sáng chế, phạm vi của bằng sáng chế, và tiêu chuẩn về sự mới lạ, tính chất của của biện pháp xử lý vi phạm); và thực sự thông qua những khía cạnh khác của khuôn khổ pháp lý và kinh tế của mỗi quốc gia, bao gồm tiêu chuẩn áp dụng đổi với luật cạnh tranh (thời điểm các doanh nghiệp bị phát hiện vi phạm luật, và quy định dang có hiệu lực). Mỗi luật và chính sách có ảnh hưởng đến mô hình và phương hướng đổi mới, đế tất cả các chính phủ đều phải đưa ra chính sách đổi mới, dù dưới hình thức công khai hay ngụ ý; đơn giản là có thể họ không biết đến chính sách dó. Hệ thống pháp luật Hoa Kỳ đã tạo ra một chính sách gần như chỉ hướng tới khuyến khích các đổi mới tài chính liên quan đến tối ưu xã hội và không khuyến khích các loại hình đổi mới khác, ví dụ như giúp bảo vệ môi trường (điều họ không làm - đảm bảo rằng đã kịp thời đưa ra được giá thành thích hợp cho môi trường – nhiều hơn là những điều họ làm).
Trong bối cảnh xuất hiện các thất bại thị trường sâu sắc liên quan đến học tập và đổi mới vấn đề đặt ra là: Điều gì sẽ tạo nên quá trình phân bổ nguồn lực cho đổi mới hiệu quả nhất, hoặc chí ít là tốt hơn? Nói rộng hơn, biện pháp can thiệp nào của chính phủ sẽ giúp tăng cường sự thịnh vượng xã hội, tăng cường một xã hội học tập, nghiên cứu? Một trong số những biện pháp can thiệp này là kêu gọi các gói tài trợ vốn (đã xác định trước) tập trung vào một ngành hoặc công nghệ nào đó. Nhưng một số biện pháp can thiệp khác thì có phạm vi rộng hơn và có do chính phủ đảm nhận, thậm chí cả khi chính phủ có năng lực hạn chế; các tác giả nêu giả thuyết rằng các nước đang phát triển cần phải bảo vệ các ngành công nghiệp của chính họ (bao gồm cả ngành nông nghiệp và dịch vụ “hiện đại”).
Tự bản thân các thị trường sẽ không thể tạo ra một xã hội học tập, hoặc thậm chí có khi có thể tự thực hiện điều này, các thị trường cũng sẽ chậm chạp hơn và ít chuyên sâu hơn so với yêu cầu. Chính phủ có thể giúp nền kinh tế non trẻ tăng trưởng. Hầu hết các nước đã thành công khi chuyển tiếp từ nước kém phát triển thành nước phát triển hơn, từ nền kinh tế trì trệ thành nền kinh tế học tập năng động đều nhờ vào quy luật phát triển của thị trường và có sự can thiệp đúng đắn, kịp thời của nhà nước.