Các tổ chức quốc tế thường coi an sinh xã hội như một chiều kích khác của khung chiến lược tăng trưởng bao trùm. Đây là một khía cạnh cần được đặc biệt nhấn mạnh, vì an sinh xã hội sẽ giúp những người nghèo cùng cực và nghèo kinh niên có được mức sống tối thiểu, đồng thời cũng giúp nhóm cận nghèo và nhóm trung lưu lớp dưới, những người vốn chỉ có mức thu nhập đủ sống, có được một hàng rào bảo vệ để tránh bị tổn thương. An sinh xã hội tạo điều kiện để các hộ gia đình yên tâm đầu tư cho tương lai, qua đó giúp thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Các thước đo chủ yếu để phản ánh sự tiếp cận của người dân đối với an sinh xã hội:
- Tỷ lệ dân số được hưởng an sinh xã hội.
- Mức độ hưởng lợi tính theo % của GDP bình quân đầu người.
- Chi cho an sinh xã hội trong tổng chi tiêu chính phủ cho y tế và chăm sóc sức khỏe.
- Tỷ lệ chi tiêu chính phủ cho an sinh và phúc lợi xã hội trong tổng chi tiêu.
Để đạt được tăng trưởng bao trùm, tức là mọi thực thể trong nền kinh tế đều được tham gia đóng góp vào quá trình tăng trưởng, mọi người lao động đều có cơ hội làm việc và đóng góp ngày càng nhiều hơn vào quá trình tăng trưởng này, và nhờ đó được hưởng mức thu nhập cao hơn và mức sống tốt hơn, sự phát triển của khu vực doanh nghiệp là một điều kiện bắt buộc. Không một quốc gia nào trên thế giới mà người dân có thể thụ hưởng một cuộc sống sung túc đa chiều lại không dựa trên nền tảng một khu vực doanh nghiệp vững mạnh, có khả năng cạnh tranh tốt và mang lại giá trị gia tăng lớn. Các nghiên cứu từ trước tới nay đã chỉ ra những kênh đóng góp vô cùng quan trọng của khu vực doanh nghiệp, cụ thể là các doanh nhân, tới sự phát triển chung của nền kinh tế trên nhiều khía cạnh, qua đó đóng góp vào sự tăng trưởng bao trùm chung của cả nền kinh tế (Schumpeter, năm 1934; Smelser, năm 1956; Dhaliwal, năm 2016).
Khu vực doanh nghiệp sẽ góp phần mang lại cơ hội làm việc cho người dân, qua đó mang lại thu nhập và nâng cao mức sống của họ cũng như nguồn thu thuế cho chính phủ để giúp duy trì hoạt động bộ máy của chính quyền cũng như đầu tư vào kết cấu hạ tầng và chi trả phúc lợi cho xã hội. Khu vực doanh nghiệp sẽ thúc đẩy sự phát triển cân bằng giữa các vùng thông qua việc tạo lập các doanh nghiệp mới, các ngành mới ở những khu vực kém phát triển và tụt hậu phía sau. Đồng thời, cũng thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hình thành nên những ngành mới, những phương thức tổ chức mới, nhờ đó nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm; tái phân phối của cải theo hướng bình đẳng hơn do giảm bớt mức độ tập trung quyền lực kinh tế. Ngoài ra, sự thúc đẩy mối liên kết quốc tế thông qua hoạt động xuất - nhập khẩu, qua đó nâng cao khả năng học hỏi và đổi mới sáng tạo của khu vực doanh nghiệp cũng rất quan trọng tạo đà cho sự chia sẻ và lan tỏa tri thức mà doanh nghiệp đã tích lũy được ra cộng đồng, xã hội.
Song hành với sự tăng trưởng chung của khu vực doanh nghiệp, việc phân phối kết quả tăng trưởng một cách công bằng giữa các khu vực doanh nghiệp phân theo các tiêu chí khác nhau cũng có thể đóng góp tích cực trở lại vào quá trình tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế, qua đó đạt được mục tiêu tăng trưởng bao trùm. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD năm 2014) đã nêu, tăng trưởng bao trùm cần bảo đảm rằng các thực thể trong nền kinh tế bao gồm các cá nhân và doanh nghiệp được chia sẻ một cách công bằng những lợi ích của tăng trưởng, tăng trưởng bao trùm hàm ý sự tham gia và chia sẻ lợi ích bởi nếu chỉ có tham gia mà không chia sẻ lợi ích thì sẽ khiến cho kết quả tăng trưởng là không công bằng. Việc phân phối kết quả tăng trưởng bị mất cân bằng quá mức sẽ hình thành nên những nhóm doanh nghiệp có tầm ảnh hưởng quá lớn trong nền kinh tế, và nhóm này có thể quay trở lại tác động tiêu cực lên sự bình đẳng về cơ hội tiếp cận quyền lực, lúc này hiển nhiên mức độ bao trùm của tăng trưởng sẽ bị tổn hại (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế - OECD, năm 2015).
Ở đây, phân phối thành quả của tăng trưởng một cách công bằng được hiểu là phân phối theo hướng có lợi cho các doanh nghiệp ngoài nhà nước nhỏ và vừa, nhóm doanh nghiệp thông thường vẫn bị cho là yếu thế hơn trong tiếp cận các cơ hội tăng trưởng. Tuy nhiên, tăng trưởng đồng đều và chia sẻ cào bằng giữa các doanh nghiệp là điều không thể, và cũng không nên trong một nền kinh tế thị trường. Nhưng nếu tồn tại những thiên lệch quá lớn một cách có hệ thống và dai dẳng trong phân phối kết quả tăng trưởng giữa các nhóm doanh nghiệp khác nhau, ví dụ như giữa doanh nghiệp nhà nước - ngoài nhà nước - nước ngoài, giữa doanh nghiệp lớn - vừa - nhỏ - siêu nhỏ, giữa doanh nghiệp vùng này với vùng khác, hoặc ta không nhìn thấy sự chuyển dịch của một doanh nghiệp giữa các quy mô khác nhau, tức là rất khó cho một doanh nghiệp nhỏ phát triển thành một doanh nghiệp lớn hơn... thì có thể đang hàm ý một sự bất bình đẳng nào đó ngay từ giai đoạn tiếp cận nguồn lực mà ta không nhìn thấy đã dẫn đến một phân phối ngày càng thiên lệch giữa các doanh nghiệp. Đó có thể là những bất bình đẳng về kết cấu hạ tầng cứng và mềm, những bất bình đẳng hình thành từ mối quan hệ ngầm giữa bộ máy thực thi chính sách của chính phủ với một số nhóm doanh nghiệp nhất định, hoặc những bất bình đẳng đến từ chính quá trình cạnh tranh khi các doanh nghiệp có vị thế tốt hơn có thể chèn ép và cản trở sự mở rộng của những nhóm doanh nghiệp khác. Một nguyên tắc mang tính dẫn dắt cho quá trình phân phối kết quả tăng trưởng là lợi ích mỗi doanh nghiệp được hưởng phải bắt nguồn từ hiệu quả về mặt chi phí, giá trị và chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp mang lại cho cộng đồng, xã hội chứ không phải đến từ vị thế, tiềm lực, các mối quan hệ sẵn có của doanh nghiệp.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD năm 2017) đã chỉ ra vai trò rất quan trọng của khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế. Đây là khu vực tạo ra số lượng việc làm lớn nhất, đóng góp quan trọng nếu không muốn nói là nhiều hơn vào đổi mới sáng tạo so với các doanh nghiệp lớn ở các nước đang phát triển. Báo cáo của OECD cũng chỉ ra rằng, khu vực doanh nghiệp này cần phải là trọng tâm hướng tới để giúp nền kinh tế có được sự phát triển bên vững và ổn định cũng như thúc đẩy tính bao trùm của tăng trưởng. Các nghiên cứu được thực hiện tại các quốc gia OECD và một số quốc gia đang phát triển khác đã chỉ ra rất nhiều rào cản chính thức và phi chính thức đã khiến cho kết quả tăng trưởng của khu vực này tương đối hạn chế so với những đóng góp của khu vực này vào nền kinh tế nói chung như việc làm, đổi mới sáng tạo. Như nghiên cứu của Beck và cộng sự (năm 2005) đã chỉ ra, một khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa lớn mạnh là một đặc điểm cơ bản của những nền kinh tế thành công về tăng trưởng. Tuy nhiên, đây cũng là khu vực được các nghiên cứu chỉ ra là gặp khá nhiều rào cản cho phát triển so với khu vực doanh nghiệp lớn (OECD, năm 1997; Chittithaworn và cộng sự, năm 2011). Nghiên cứu của Beer (năm 2008) và Audretsch (năm 2012) đã phân tích về sự phát triển của các doanh nghiệp tăng trưởng nhanh ở một số nước trên thế giới và cho thấy rằng, có những quốc gia mà cơ hội để một doanh nghiệp nhỏ có thể tăng trưởng nhanh để vươn lên thành doanh nghiệp lớn hơn là rất thấp, trong khi một số những quốc gia thì cơ hội này lại tương đối rõ rệt, và thông thường ở những quốc gia này tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ cao hơn. Chính sự vận động trong vị thế của doanh nghiệp giữa các quy mô khác nhau sẽ thúc đẩy sự cạnh tranh, động lực khởi nghiệp và hạn chế được khả năng chi phối của một nhóm doanh nghiệp cụ thể tới những người ban hành và thực thi chính sách. Nó sẽ đóng góp một cách trực tiếp và gián tiếp vào sự bao trùm của quá trình tăng trưởng kinh tế nói chung.