Người ta đã tranh luận nhiều về kế hoạch hoá kinh tế Nhật Bản mà mỗi ý kiến đều phản ánh những đường lối điều tra khác nhau. Nhận thức khác nhau không chỉ tồn tại giữa các nhà quan sát nước ngoài và Nhật Bản, mà còn giữa các nhà kinh tế Nhật Bản và các quan chức phụ trách vấn đề kế hoạch hoá kinh tế.
Đặc biệt nhiều nhà quan sát nước ngoài cho rằng kế hoạch hoá kinh tế đã đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra những thành công kinh tế nổi bật trong thời kỳ sau chiến tranh. Thực tế chính phủ Nhật Bản đã duy trì một hệ thống kế hoạch hoá kinh tế dài hạn khá độc đáo so với các nước công nghiệp có thị trường tự do. Ở phương Tây, chỉ có Pháp và Thụy Điển dựa vào kế hoạch hoá kinh tế chỉ dẫn tương tự như của Nhật. Các nước khác như Đức, Anh và Canada cũng có những kế hoạch kinh tế dài hạn, nhưng những kế hoạch này chỉ bao hàm một số lĩnh vực hạn chế như dự toán chi tiêu mà không bao hàm bất cứ một tuyên bố chính sách kinh tế nào. Hơn nữa, nhiều nhà quan sát nước ngoài thường quan niệm rằng ở Nhật chính phủ và khu vực tư nhân duy trì quan hệ chặt chẽ để đạt được những mục tiêu kinh tế chung. Đương nhiên các nhà quan sát nước ngoài như thế đã kết luận rằng chính hệ thống kế hoạch hoá kinh tế độc đáo của Nhật Bản đã mang lại sự phát triển kinh tế độc nhất vô nhị.
Mặt khác, nhiều nhà kinh tế Nhật Bản lại cho rằng kế hoạch hoá kinh tế Nhật Bản chỉ là vật trang điểm. Những kết quả kinh tế đạt được thường khác so với những gì đã dự tính trong kế hoạch, và các biện pháp chính sách kinh tế chưa hẳn đã được thực hiện theo các cách đã được vạch ra trong kế hoạch. Bởi vậy, các nhà kinh tế này đã xem nhẹ kế hoạch hoá kinh tế, và chỉ coi nó như một biến số giải thích.
Có nhiều quan điểm cho rằng kế hoạch kinh tế Nhật Bản không đóng góp nhiều vào hoạt động kinh tế sau chiến tranh như các nhà quan sát nước ngoài đánh giá. Thành tựu kinh tế sau chiến tranh là kết quả của nhiều nhân tố. Cả các nhân tố độc lập lẫn chính sách ở tầm vĩ mô và vĩ mô đều đã góp phần vào sự phát triển và kế hoạch hoá kinh tế chỉ là một trong các nhân tố tầm vĩ mô. Các nhân tố độc lập ở tầm vĩ mô bao gồm tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư cao và những thay đổi trong cơ cấu công nghiệp đã đóng góp nhiều cho sự phát triển. Ngay cả không có kế hoạch hoá nền kinh tế Nhật Bản vẫn hoạt động tốt hơn hẳn các nước công nghiệp khác.
Tuy nhiên, nhận xét này không có nghĩa là kế hoạch hoá là vô nghĩa. Rõ ràng, kế hoạch kinh tế Nhật Bản đã đóng vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực, mà một vài lĩnh vực đó sẽ được mô tả ở bài viết này.
Những đặc điểm của kế hoạch kinh tế Nhật bản là đặc thù cho giai đoạn phát triển của nền kinh tế Nhật Bản. Đó là một điểm quan trọng khi chúng ta xem xét xem kế hoạch hoá kinh tế của Nhật liệu có phù hợp với các nước khác không, đặc biệt là các nước Trung và Đông Âu hiện đang cố gắng chuyển từ các nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế hướng vào thị trường.
Để xem xét sự thích hợp có thể, trước hết chúng ta phải hiểu được hệ thống kế hoạch hoá kinh tế Nhật Bản. Để làm được điều đó, chúng ta cần chia thời kỳ sau chiến tranh làm hai giai đoạn.
Giai đoạn kế hoạch hoá kinh tế thứ nhất là thời kỳ ổn định. ngay sau chiến tranh từ năm 1946 đến 1955. Kế hoạch hoá kinh tế trong thời kỳ này là hết sức cấp bách, vì chính phủ cố gắng kiểm soát trực tiếp các hoạt động kinh tế và giá cả. Đối với Nhật Bản đây là thời kỳ tái thiết, cố gắng cải tạo và ổn định nền kinh tế Nhật bị chiến tranh tàn phá. Sản xuất của ngành khai thác và chế tạo đã giảm 70% so với mức sản xuất của thời kỳ 1934-1936. Lạm phát tăng vọt, giá cả tăng 200% trong 6 tháng đầu năm 1946.
Chính phủ Nhật đã vạch ra một kế hoạch kinh tế tương tự như các kế hoạch kinh tế của các nước có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Sẽ không thể hoàn thành được việc tái thiết kinh tế bằng một hệ thống thị trường tự do. Cùng với siêu lạm phát, nhiều thị trường đã bị bao bọc bởi các khoảng cách lớn giữa nhu cầu bị kìm hãm và nguồn cung cấp hàng hoá bị hạn chế. Không có một giải pháp thay thế nào khác ngoài kiểm soát việc phân bổ tài nguyên và giá cả. Để tiến hành kiểm soát kinh tế Ủy ban ổn định kinh tế (Keizai Antei-honbu: ESB) và Cục Quản lý Giá cả (Bukka -cho) đã được thành lập.
Giai đoạn thứ hai là thời kỳ sau năm 1955 cho đến nay. Sau khi ổn định được kinh tế, những kiểm soát đã được bãi bỏ trong nhiều lĩnh vực và thay bằng thị trường. Những đặc điểm của kế hoạch hoá kinh tế trong thời kỳ thứ hai này hoàn toàn khác so với thời kỳ đầu. Các kế hoạch trở thành các kế hoạch chỉ dẫn chỉ phác ra chính sách kinh tế cơ bản và cung cấp những định hướng, chứ không phải chỉ thị, cho nền kinh tế.
Từ năm 1947 đến đầu những năm 50 chính phủ Nhật đã thi hành một kế hoạch kinh tế nhằm kiểm soát trực tiếp nền kinh tế. Ủy ban Ổn định Kinh tế đã đóng một vai trò trung tâm trong việc soạn thảo và thực hiện kế hoạch này.
Ủy ban Ổn định kinh tế được thành lập vào năm 1946 với một cơ sở quyền lực cao hơn nhiều so với bất cứ cơ quan nào khác liên quan đến chính sách kinh tế. ESB có trách nhiệm chính thực hiện những kiểm soát của chính phủ đối với giá cả và sản xuất. Sắc lệnh thành lập Ban Ôn định Kinh tế tuyên bố “dưới sự giám sát của Thủ tướng, ESB sẽ soạn thảo các kế hoạch khẩn cấp để ổn định sản xuất và phân phối hàng hoá, lao động, giá cả, tài chính, mậu dịch v.v.. và sẽ phối hợp giám sát và thúc đẩy các chính sách của các bộ và các cơ quan khác.
Thủ tục phân phối là một ví dụ tốt về việc chính phủ lập kế hoạch và thực hiện các kiểm soát trên như thế nào. Các thủ tục phân phối có hiệu lực nhờ Luật Tạm thời điều chỉnh cung cầu nguyên vật liệu (Rinji Busshi Sukyu Chosei-ho), những quy định về các thủ tục phân bổ các sản phẩm đã chỉ định (Shitai Seisan Shizai wariate-kisoku), và những quy định về các thủ tục phân phối hàng hoá (Shitei Kaikyu Busshi Haikyu Tetsuzuki Kisohu).
Nhiều nguyên liệu quan trọng như than và thép đã được đặt dưới hệ thống phân phối. Bộ hữu quan tính toán nhu cầu của người sử dụng và đệ trình các con số tổng cầu lên ESB. Sau đó ESP tính toán tổng cầu và cung cho quý tới và phân bổ nguyên vật liệu trên cơ sở từng khu vực. Dựa vào kế hoạch hàng quý này. Bộ chủ quản tương ứng sẽ cấp cho mỗi người sử dụng một giấy chứng nhận phân bổ. Điều quan trọng cần nhớ rằng ngay từ đầu người ta đã có ý định chỉ sử dụng tạm thời những kiểm soát kinh tế trực tiếp. Khi ESB được thành lập, Bộ chỉ huy tối cao (SCAP) đã chỉ rõ rằng ESB là một tổ chức tạm thời chỉ nhằm đối phó với khủng hoảng kinh tế. Hầu như mọi người Nhật tham gia đều nhận thấy rằng kiểm soát trực tiếp là một biện pháp phân bổ tài nguyên kém hiệu quả và chỉ nên sử dụng trong những trường hợp khẩn cấp. Khi sản xuất tăng lên dần dần tạo ra nhiều hàng hoá hơn cho thị trường thì các vấn đề nhu cầu quá mức sẽ lắng dịu xuống. Những kiểm soát của chính phủ sẽ dần dần được dỡ bỏ, và USB đã được giải thể vào năm 1952.
ESB còn đóng một vai trò quan trọng khác cung cấp cho công chúng những thông tin kinh tế chi tiết, và đáng tin cậy. Người ta hiểu rằng một trong những nhiệm vụ của nó là đưa ra những thống kê kinh tế củng cố thêm cơ sở khoa học hợp lý cho việc hoạch định các chính sách kinh tế. Có ba phát triển quan trọng tại ESB về vai trò này. Trước hết, Ban này đã công bố một văn kiện có nhan đề “Thực trạng nền kinh tế quốc dân” (Keizai Jisso Hokoku Sho). Báo cáo này cho thấy rằng cả ba khu vực kinh tế trong nước, chính phủ, giới kinh doanh, người tiêu dùng, đều đang bị thâm hụt. Đồng thời nó cũng kêu gọi nhân dân NhậtBản gắng chịu đựng cảnh nghèo khó tạm thời nhưng cần lạc quan về sự phục hồi kinh tế tương lai.
Văn kiện này báo hiệu sự thay đổi thái độ của các nhà hoạch định chính sách. Trước đây, họ thường đưa ra các quyết định mà không cung cấp bất cứ thông tin cơ sở nào cho công chúng. Thế nhưng văn kiện này đã cố gắng công bố rộng rãi thực trạng của nền kinh tế và kêu gọi sự ủng hộ và hợp tác của mọi công dân. Phản ứng chung đối với báo cáo này là rất thuận và Quốc hội đã yêu cầu USB công bố những báo cáo như vậy, ít nhất một năm một lần. Từ đó, Báo cáo Kinh tế Hàng năm (Nenji Keizai Hokoku)- Sách thường được gọi là Sách trắng (Keizan Hakushop - đã được công bố hàng năm. Báo cáo này được nhiều người đọc và là một trong những tài liệu quan trọng nhất để hiểu tình hình kinh tế Nhật Bản ngày nay.
Thứ hai, ESB đã tiến hành một cuộc khảo sát về thiệt hại do chiến tranh và đã công bố kết quả vào năm 1948 và năm 1949. Cuộc khảo sát này nhằm điều tra sự thiệt hại ở ba lĩnh vực cuộc sống con người, của cải quốc gia và năng lực sản xuất.
Thứ ba, ESB làm việc để soạn thảo những thống kê kinh tế cơ bản. Năm 1953, báo cáo đầu tiên về tổng sản phẩm quốc dân (TSPOD) Nhật Bản (Kokumin Shotoky Hakusho) đã được công bố, ước tính TSPQD từ năm 1946 đến năm 1951. Năm 1948, TSPOD tính theo đầu người là 100 đôla xếp Nhật vào hàng thứ 2 trong danh sách 70 nước. Năm 1989, TSPOD tính theo đầu người đã đạt 23.463 đôla, cao thứ ba thế giới.
Một trong những điều kiện cơ bản để phát triển kinh tế là sự tin tưởng của công chúng vào chính phủ và các chính sách kinhtế của nó. Để giành được sự ủng hộ này, ngoài những vấn đề khác chính phủ phải cung cấp những thông tin kinh tế chi tiết và đán tin cậy. ESB đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chức năng này.
ESB đã bị giải thể vào tháng 7 năm 1952 và Cục Nghiên cứu Kinh tế (Keizai Shigi-cho) được thành lập thay cho ESB. Năm 1955 cục này được thay bằng Cục Kế hoạch Kinh tế (Keizai Kikaku-cho), chịu trách nhiệm xây dựng và thực hiện các kế hoạch kinh tế dài hạn.
Vào tháng 12 năm 1955, “Kế hoạch 5 năm Tự lực Kinh tế” đã được thông qua như một kế hoạch kinh tế dài hạn chính thức đầu tiên. Trong khi việc lập kế hoạch kinh tế dài hạn vẫn còn tiếp tục, thì ngày nay chúng được tiến hành trong bối cảnh của một nền kinh tế thị trường. Vì vậy, tính chất và mục tiêu của chúng khác hoàn toàn so với các kế hoạch của các nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
Ở Nhật, việc phân bố các nguồn lực kinh tế về cơ bản do thị trường quyết định. Do vậy, khả năng kiểm soát kinh tế của chính phủ bị hạn chế. Ngày nay kế hoạch hoá kinh tế của Nhật Bản được coi là “kế hoạch hoá chỉ dẫn” nói cách khác, chính phủ chỉ chỉ ra phương hướng phát triển kinh tế chung, chứ không đưa ra những kế hoạch chi tiết.
Ngay từ đầu, người ta đã làm rõ rằng kế hoạch kinh tế của Nhật Bản chỉ bổ sung cho cơ chế thị trường. Lời tựa trong bản “Kế hoạch 5 năm Tự lực Kinh tế viết như sau:
Kế hoạch kinh tế này sẽ được thực hiện trong một hệ thống kinh tế dựa trên những sáng kiến và hoạt động tự do của các cá nhân và các công ty tư nhân, thừa nhận nguyên tắc chính phủ cần điều chỉnh mức tối thiểu việc thực hiện các mục tiêu đề ra trong kế hoạch kinh tế, sẽ phụ thuộc vào việc đánh giá và nỗ lực của chính nhân dân Nhật Bản”. Gần đây, kế hoạch kinh tế “Quản lý Kinh tế trong bối cảnh Toàn cầu” công bố năm 1988, cũng tuyên bố tương tự.
“Vì nền kinh tế Nhật Bản chủ yếu do thị trường chi phối, nên đừng mong đợi sẽ có một kế hoạch kinh tế có thể xác định và kiểm soát được mọi khu vực kinh tế và xã hội hoặc buộc phải thực hiện những dự án của nó. Đúng hơn là vai trò cơ bản của kế hoạch hoá kinh tế ở Nhật Bản là: Đưa ra dự đoán về con đường mà nền kinh tế phải và có thể phát triển; Chỉ ra những phương hướng cơ bản mà chính phủ cần tuân theo trong việc thực hiện quản lý chính sách kinh tế dài hạn và trung hạn cũng như xác định rõ các mục tiêu và biện pháp chính sách ưu tiên: và Đưa ra những định hướng cơ bản cho các quyết định của hộ gia đình và các đoàn thể.
Có ba bộ phận cấu thành chủ yếu trong những kế hoạch kinh tế của Nhật Bản. Phần thứ nhất là miêu tả chung các điều kiện tinh tế và các mục tiêu chính sách kinh tế của chính phủ, tiếp đó là việc miêu tả chi tiết các chính sách kinh tế của chính phủ sẽ được thực thi trong thời kỳ kế hoạch. Phần đầu của mỗi kế hoạch kinh tế nhằm làm rõ các mục tiêu chính sách dài hạn.
Loại thứ nhất bao gồm các kế hoạch liên quan đến việc phục hồi từ sự tàn phá của Chiến tranh Thế giới Thứ hai và việc thực hiện một nền kinh tế tự lực. Kế hoạch cải tạo kinh tế (Keizai Fukko Keikaku) (được thảo ra vào năm 1949 nhưng không được chính phủ chính thức thông qua) và “Kế hoạch 5 năm tự lực kinh tế" (1955) cũng thuộc loại này.
Loại thứ hai gồm những kế hoạch nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng cao. “Kế hoạch kinh tế tầm xa mới” (1957) và “Kế hoạch tăng gấp đôi thu nhập quốc dân" (1960) thuộc vào loại thứ hai này.
Loại thứ ba bao gồm các kế hoạch kinh tế phản ánh việc chú trọng vào sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội cân đối. Tư tưởng về nhà nước phúc lợi đã được đưa vào những kế hoạch này và chính phủ bắt đầu sử dụng từ “ xã hội" trong các tiêu đề kế hoạch “Kế hoạch phát triển kinh tế và xã hội" (1967) và “Kế hoạch kinh tế và xã hội cơ bản” thuộc về loại này.
Kế hoạch kinh tế Nhật Bản đã vạch ra cách mà chính phủ định dùng để quản lý nền kinh tế quốc dân xét từ viễn cảnh lâu dài. Các chính sách kinh tế được miêu tả trong kế hoạch thể hiện một cam kết chính thức về phía chính phủ. Các kế hoạch này dứt khoát phải được chính phủ thông qua.
Có thể nói rằng kế hoạch kinh tế của Nhật Bản đã thành công trong việc phác thảo ra các chính sách dài hạn thích hợp đủ linh hoạt để làm thích nghi với những thay đổi kinh tế và xã hội.
Ví dụ, chính sách của chính phủ nói chung đã chuyển từ việc nhấn mạnh vào tăng trưởng kinh tế sang nhấn mạnh vào các vấn đề phúc lợi và hợp tác quốc tế. Những vấn đề gần đây như ô nhiễm môi trường và nhu cầu tăng cường hệ thống phúc lợi xã hội đã nhanh chóng được phản ánh trong kế hoạch kinh tế.
Những thay đổi lâu dài trong cơ cấu công nghiệp cũng được tính đến trong những kế hoạch này, kể cả việc chuyển từ một cơ cấu công nghiệp dựa vào các ngành công nghiệp nặng và hoá chất sang một cơ cấu công nghiệp dựa vào các ngành có giá trị gia tăng cao và có hàm lượng tri thức lớn. Kế hoạch tăng gấp đôi “thu nhập quốc dân” (1960) đã dự kiến tốc độ tăng trưởng sản xuất cao đối với các ngành công nghiệp nặng và hoá chất kế hoạch này đã dự tính rằng tốc độ tăng trưởng sản xuất trung bình hàng năm của các ngành công nghiệp nặng và hoá chất là 13,2% trong giai đoạn từ 1959 đến 1970. Tốc độ này cao hơn một chút so với mức 11,3% dự kiến cho toàn bộ ngành chế tạo. Thực tế trong suốt giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng sản xuất của toàn ngành chế tạo là 14,8% trong khi tốc độ đó của ngành công nghiệp nặng và hoá chất là 18,3%. Kế hoạch này đã đánh giá thấp sự tăng trưởng của toàn bộ sản xuất, mặc dù nó đã dự kiến chính xác một tốc độ tăng trưởng cao hơn đối với các ngành công nghiệp nặng và hoá chất, “Kế hoạch kinh tế cho nửa thứ hai của những năm 1970” đã dự báo mức tăng tương đối trong sản xuất của các ngành công nghiệp cần nhiều công nghệ như ngành sản xuất sản phẩm máy móc. Theo kế hoạch này, tốc độ tăng trưởng sản xuất trung bình hàng năm dự kiến là 7,8% đối với tổng sản phẩm công nghiệp và 10,7% đối với ngành công nghiệp chế tạo máy. Trong thực tế toàn bộ sản xuất tăng 4,6% trong khi đó ngành công nghiệp chế tạo máy lại tăng 9,3%.
Các kế hoạch kinh tế Nhật Bản cũng đã công bố những dự án kinh tế dài hạn về các chỉ số kinh tế quan trọng. Đặc biệt, các kế hoạch cho những năm 50 và 60 bao gồm rất nhiều các dự án chi tiết. Kế hoạch kinh tế chính thức thứ nhất “Kế hoạch 5 năm tự lực kinh tế” (1955) - đã đưa ra những dự báo về tổng sản phẩm quốc dân và các bộ phận cấu thành của nó, sản xuất nông nghiệp, việc làm theo ngành, ngân sách quốc gia, nguồn và cách sử dụng vốn theo ngành. “Kế hoạch tăng gấp đôi thu nhập quốc dân”, được thông qua năm 1960, đã có những dự đoán về dân số, bộ phận cấu thành nhu cầu và công nghiệp của TSPQD, cơ cấu việc làm theo ngành, sự cân đối giữa đầu tư và tiết kiệm, thu chi ngân sách, cán cân thanh toán và năng suất lao động.
Vào những ngày đó, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch hoá kinh tế là đảm bảo cơ sở cho hoạt động công nghiệp và đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Để vạch ra được những chính sách cần thiết để đạt được những mục tiêu này, thì những phân tích chi tiết về lượng các điều kiện cung cầu là hoàn toàn cần thiết cho sự tiến bộ kinh tế.
Có nhiều lý do lý giải cho việc chuyển từ những dự án chi tiết sang những dự án phác thảo và từ thẳng thừng sang thận trọng. Thứ nhất, trọng tâm của kế hoạch hoá đã chuyển từ tăng trưởng kinh tế sang mở rộng các quan tâm xã hội. Thứ hai, dự báo kinh tế ngày càng khó khăn hơn bởi vì môi trường kinh tế, đặc biệt là các biến số quốc tế như giá dầu mỏ và tỷ giá hối đoái, đã bắt đầu dao động đáng kể. Thứ ba, chính phủ không thể đưa ra một quan điểm kinh tế chi tiết, phù hợp với những cái đã được trình bày trong kế hoạch được. “Triển vọng và những định hướng kinh tế và xã hội trong những năm 80” (1983) cho thấy chính phủ muốn chấm dứt tình trạng phụ thuộc của mình vào công trái tài trợ thâm hụt, xem xét lại những mất cân đối đối ngoại và thực hiện tăng trưởng kinh tế hướng vào nhu cầu trong nước. Tuy vậy, chính phủ không thể đưa ra những dự án mà trong đó tất cả những mục tiêu chính sách này có thể được thực hiện một cách nhất quán được.
Thường có ý kiến cho rằng ở Nhật, chính phủ và giới kinh doanh hợp tác với nhau để định ra những ưu tiên kinh tế và đạt được những mục tiêu kinh tế nhất định, và các kế hoạch kinh tế khuôn khổ thể chế tạo điều kiện cho sự hợp tác này. Tuy vậy, tôi tin rằng kế hoạch hoá ảnh hưởng đến nền kinh tế không mạnh như người ta vẫn nói. Các chính sách được vạch ra trong kế hoạch không nhất thiết đã được thi hành, và luôn có sự khác biệt giữa các dự án và các kết quả kinh tế thực tế. Trong thực tế một số người đã cho rằng những vấn đề này có nghĩa là kế hoạch hoá không phải là cái gì khác ngoài nghệ thuật bày hàng ở tủ kính.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi nền kinh tế không diễn ra đúng như kế hoạch đã dự kiến. Cung và cầu được quyết định thông qua sự tác động qua lại giữa người sản xuất và người tiêu dùng trên thị trường. Chính phủ không thể trực tiếp kiểm soát những trao đổi này. Hơn nữa, những dao động kinh tế không lường trước được có thể tác động đến toàn bộ nền kinh tế. Rõ ràng, không có cách nào để đảm bảo rằng các dự án kinh tế vạch ra trong kế hoạch hoá kinh tế sẽ trùng khớp với kết quả kinh tế thực tế.
Người ta thường cho rằng những dự án kinh tế vĩ mô trong kế hoạch kinh tế chỉ có vai trò như là những định hướng cho khu vực tư nhân, còn chính phủ có trách nhiệm thực hiện các chính sách kinh tế nào nêu trong kế hoạch. Tuy vậy, các chính sách này không phải lúc nào cũng được thực hiện. Điều này không có nghĩa là kế hoạch kinh tế Nhật Bản chỉ là vật trang điểm. Có nhiều lý do lý giải tại sao thường khó thực hiện các chính sách kinh tế được kế hoạch hoá.
Trước hết, không có một tổ chức trung tâm nào để thực hiện kế hoạch kinh tế. Cục kế hoạch kinh tế giữ vai trò trung tâm trongviệc dự thảo kế hoạch, nhưng việc thực hiện kế hoạch đó lại phụ thuộc hoàn toàn vào từng bộ hoặc cục hữu quan. Cục Kế hoạch Kinh tế không thể ép các bộ phải thực hiện chính sách như đã nêu trong kế hoạch.
Thứ hai, hệ thống ngân sách không chịu ảnh hưởng hoặc có quan hệ với việc kế hoạch hoá kinh tế dài hạn. Thay vào đó, ngân sách phải được Quốc hội thông qua hàng năm. Do vậy, những cam kết chi tiêu của chính phủ bị giới hạn trong thời gian năm một. Mặc dù kế hoạch kinh tế có thể bao gồm cả việc lập kế hoạch đầu tư công cộng dài hạn, nhưng việc thực hiện lại không được đảm bảo do những hạn chế cố hữu trong quá trình ngân sách.
Việc kế hoạch hoá kinh tế dài hạn trong một nền kinh tế thị trường phải đối đầu với tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Một mặt, các chính sách của nó cần được thực hiện và các mục tiêu của nó cần được theo đuổi. Tuy nhiên, trong một nền kinh tế thế giới phụ thuộc lẫn nhau, hầu như không thể dự đoán được sự phát triển kinh tế dài hạn. Vì thế, ngày càng cần phải xem xét lại các mục tiêu và biện pháp chính sách tuỳ theo những thay đổi trong môi trường kinh tế và xã hội.
Kế hoạch kinh tế Nhật Bản kéo dài từ 5 năm đến 10 năm. Thời gian trung bình là 6,6 năm. Tuy vậy, không một kế hoạch nào hoàn thành hết thời gian quy định. Do đó, một số người đã phê phán rằng chính phủ chưa đủ tích cực để thực hiện các biện pháp chính sách đã được vạch ra trong các kế hoạch kinh tế. Theo tôi, việc thay thế thường xuyên này cho thấy tính linh hoạt của kế hoạch hoá kinh tế Nhật Bản. Việc xem xét lại liên tục các kế hoạch kinh tế là cần thiết để đối phó với một môi trường không thể lường trước được cũng như những ưu tiên liên tục thay đổi của công chúng.
Như vậy, xét về mặt chính thức, chính phủ đã có 11 kế hoạch độc lập. Tuy vậy mỗi một kế hoạch đều dựa vào những nỗ lực trước đó và đều nhằm khắc phục những chênh lệch giữa các mục được công bố và các kết quả thực tế.