Hoạt động kiểm toán nội bộ nhằm kiểm tra, đánh giá và tư vấn mang tính độc lập, khách quan cùng các khuyến nghị về hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị đã được thiết lập và vận hành một cách phù hợp nhằm phòng ngừa phát hiện, xử lý các rủi ro của đơn vị. Bên cạnh đó việc đề xuất hoàn thiện quy trình quản trị và quy trình quản lý rủi ro của các đơn vị bảo đảm tính hiệu quả và có hiệu suất cao. Khuyến nghị các mục tiêu hoạt động và các mục tiêu chiến lược, kế hoạch và nhiệm vụ công tác mà đơn vị đạt được phù hợp với các quy định của Luật kế toán và luật kiểm toán nhà nước.
Nhiều quốc gia đang phát triển thấy mình bị rơi vào hoàn cảnh không mong muốn phải đối mặt với những yếu kém hoặc thậm chí sự tan rã hoàn toàn của các biện pháp kiểm soát nội bộ và chức năng kiểm toán nội bộ không hoạt động, mặt khác phải chịu áp lực ngày càng tăng từ phía các nhà tài trợ trong việc phải cải thiện chất lượng điều hành. Nếu như các chuẩn mực quốc tế dựa trên thông lệ tốt nhất dường như không thể được thực hiện, ít nhất trong ngắn hạn, các quốc gia đang phát triển cần phương án thay thế tốt thứ hai để ít nhất chuyển sang thông lệ quốc tế “tốt”. Cách thức để làm điều đó được vạch ra trong các bước sau:
Khi xây dựng chức năng kiểm toán nội bộ, bước đi quan trọng nhất mà các quốc gia đang phát triển phải thực hiện chắc chắn là xác định vai trò của kiểm toán nội bộ trong hệ thống quản lý tài chính công của quốc gia và qua đó là các mục tiêu chính của nó.
Tại Việt Nam, việc thiết kế chung của chức năng kiểm toán nội bộ phải phù hợp với các ưu tiên cụ thể về quản lý tài chính công trong từng giai đoạn. Hiện nay công tác quản lý tài chính công còn nhiều bất cập gây lãng phí, thất thoát, và kiểm soát kém hiệu quả nên mục tiêu đầu tiên phải là đảm bảo sự quy củ về tài chính và thực thi hiệu lực tuân thủ với các văn bản quy phạm pháp luật về tài chính. Tuy nhiên, hệ thống văn bản pháp quy chưa đáp ứng yêu cầu và hướng dẫn tổ chức thực hiện kiểm toán nội bộ, các quy định chủ yếu mới tập trung vào một số ngành chính, chưa bao quát được các ngành kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam. Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam chưa tổ chức kiểm toán nội bộ, trường hợp có tổ chức thì kiểm toán nội bộ chưa thực hiện được đầy đủ các chức năng cốt lõi, chưa phát huy được hết hiệu quả cho đơn vị. Có thể thấy rằng, hệ thống tài chính công của Việt Nam đang đối mặt với những khó khăn ngân sách ở mức độ cao, nên nhu cầu kỷ luật tài khoá nhằm đảm bảo thực hiện được các mục tiêu kinh tế vĩ mô sẽ được xác định là quan trọng nhất.
Nghiên cứu công tác kiểm toán nội bộ của các quốc gia có nền kinh tế phát triển có thể nhận thấy được việc áp đặt các kỷ luật tài chính tổng thể sẽ đặt ra yêu cầu cao nhằm bảo đảm tuân thủ pháp luật, đảm bảo hiệu suất và hiệu quả trong sử dụng nguồn lực. Mặc dù vấn đề hiệu suất và hiệu quả vẫn đang là sự quan tâm của các quốc gia công nghiệp, nhưng rõ ràng đối với nhiều quốc gia đang phát triển, chức năng kiểm toán nội bộ cần tập trung vào đảm bảo tuân thủ và quy củ về tài chính.
Để khắc phục các hạn chế trong hệ thống tài chính công của Việt Nam cần xác định các nguyên nhân khi tiến hành xây dựng và hoàn thiện kỷ luật tài khóa. Việc tạo hành lang pháp lý cho kiểm toán nội bộ hoạt động đang là yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Với mục tiêu tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước của Chính phủ đang là nhiệm vụ cấp thiết trong phát triển kinh tế vĩ mô thì việc hoàn thiện các quy định về yêu cầu doanh nghiệp tổ chức kiểm toán nội bộ là cần thiết. Bên cạnh đó, Quốc hội đã ban hành Luật Kế toán, Luật Kiểm toán Nhà nước và Luật Kiểm toán độc lập cũng cần ban hành Luật kiểm toán nội bộ thay vì chỉ quy định kiểm toán nội bộ trong Luật Kế toán năm 2015.
Theo xu hướng phát triển của kiểm toán nội bộ trên thế giới, khung khổ pháp lý về kiểm toán nội bộ tương đối đồng bộ nên việc xây dựng hành lang pháp lý về kiểm toán nội bộ của Việt Nam là rất cần thiết trong xu thế hội nhập và phát triển.
Khi xây dựng hệ thống khung pháp lý về kiểm toán cần chú ý tới sự đồng bộ từ luật, nghị định, thông tư, điều lệ và sổ tay kiểm toán nội bộ tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình vận hành kiểm toán nội bộ ở nước ta. Đồng thời, việc xây dựng các quy định cụ thể trong Quy chế về tổ chức và hoạt động của kiểm toán nội bộ cũng cần được nâng cao nhằm khẳng định vị thế của kiểm toán nội bộ trong quản lý và điều hành nền tài chính công.
Luật kiểm toán nội bộ cần quy định rõ về nội dung, phạm vi kiểm toán theo hướng bao quát tất cả các hoạt động của các đơn vị với các tiêu chí như kiểm toán tuân thủ, đánh giá việc chấp hành pháp luật, chính sách của ngành, quy chế nội bộ của đơn vị, kiểm toán các vấn đề liên quan đến tài chính, rủi ro thông tin; kiểm toán hoạt động đánh giá hiệu quả các quy trình kiểm soát, quản trị rủi ro, đánh giá hiệu quả hiệu năng các hoạt động của đơn vị.
Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, quản trị rủi ro và cắt giảm chi phí hoạt động kinh doanh trong mối quan hệ đảm bảo tính hiệu quả và kinh tế cũng là một trong những nội dung căn bản mà kiểm toán nội bộ cần chú ý.
Luật kiểm toán nội bộ cần nghiên cứu phương pháp tiếp cận kiểm toán của Viện kiểm toán nội bộ toàn cầu. Phương pháp tiếp cận kiểm toán của Viện kiểm toán nội bộ dựa trên rủi ro của đơn vị, đây là phương pháp tiếp cận ưu việt và nổi bật, bảo đảm cho các nhà quản lý trong quy trình quản lý rủi ro trên phương diện từ thiết kế đến mức độ hoạt động hiệu quả của quy trình, cùng với đó sẽ quản trị những rủi ro trên cơ sở các biện pháp kiểm soát và phương án khắc phục trong quá trình vận hành. Ngoài ra, phương pháp tiếp cận kiểm toán trên cơ sở rủi ro sẽ đưa ra những số liệu từ các báo cáo và phân loại rủi ro đầy đủ, chính xác và phù hợp. Về bản chất kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp không có chức năng đánh giá rủi ro nhưng có niệm vụ đánh giá lại quy trình đánh giá rủi ro và cung cấp sự đảm bảo hoặc tư vấn cho nhà quản trị trong doanh nghiệp về việc thiết kế và thực hiện quy trình đó. Như vậy, đối với các KTNB trong các doanh nghiệp, thực hiện phương pháp KTNB dựa trên rủi ro sẽ khá thuận tiện và phù hợp.
Luật kiểm toán nội bộ ra đời sẽ bảo đảm tính chuyên nghiệp của các doanh nghiệp về tổ chức và hoạt động kiểm toán nội bộ bằng việc tiếp cận thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Việc ban hành hành lang pháp lý để thực hành kiểm toán nội bộ cũng cần tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp phù hợp, sử dụng hướng dẫn thực hành kiểm toán nội bộ theo khung của Hiệp hội Kiểm toán nội bộ toàn cầu. Hiện nay ở Việt Nam, chưa có chuẩn mực về kiểm toán nội bộ theo quy định pháp luật hiện hành mà chỉ có một số các chuẩn mực cơ bản của Hiệp hội kiểm toán nội bộ toàn cầu như: Chuẩn mực Quốc tề về Thực hành chuyên môn kiểm toán nội bộ, và các Chuẩn mực thuộc tính khác, đây là cơ sở ban đầu cho kiểm toán viên nội bộ Việt Nam trong quá trình thực hiện kiểm toán.
Trong quá trình xây dựng các quy định về Luật kiểm toán nội bộ cũng cần nghiên cứu các quy định cụ thể về ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm toán. Trong thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp cần ứng dụng phần mềm kiểm toán để nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ kiểm toán thông qua việc tăng năng suất lao động, cũng như đảm bảo sự chính xác, khoa học hơn trong kiểm toán. Tuy nhiên, theo nghiên cứu mới nhất của Trung tâm quản lý kiểm toán thuộc Viện kiểm toán nội bộ toàn cầu, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm toán còn khá hạn chế tại các nước đang phát triển.
Luật kiểm toán nội bộ cũng cần quy định các tiêu chí đối với kiểm toán viên nội bộ như trình độ chuyên môn, chuẩn mực kiểm toán và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên nội bộ phù hợp với yêu cầu và thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, các kỹ năng thuộc về tư duy sáng tạo, tư duy phản biện, nhạy bén kinh doanh và nhận diện rủi ro cũng là điều cần thiết phải hoàn thiện đối với từng kiểm toán viên nội bộ.
Tóm lại, từ kinh nghiệm của các nước phát triển về kiểm toán nội bộ do Viện kiểm toán nội bộ toàn cầu nghiên cứu cho thấy, hệ thống cơ sở pháp lý về kiểm toán nội bộ được xây dựng vững chắc, đầu đủ và đồng bộ nhằm áp dụng các thông lệ tốt nhất để kiểm soát nội bộ và quản trị rủi ro. Cùng với bối cảnh hiện tại Việt nam là một nước đang phát triển, thể chế kinh tế thị trường chưa đầy đủ, hành lang pháp lý về kiểm toán nội bộ chưa thiết lập đồng bộ và đầy đủ, quản trị doanh nghiệp còn nhiều hạn chế nên chưa tự nguyện áp dụng các thông lệ tiên tiến về quản trị để có thể tham gia sâu rộng vào thị trường quốc tế trong quá trình hội nhập. Do đó, việc ban hành Luật kiểm toán nội bộ nhằm tổ chức thực hiện theo lộ trình, có kế hoạch, vận dụng thông lệ quốc tế phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội của nước ta là rất cần thiết.