1. Cơ sở pháp lý
Trên thực tế, những quy định pháp luật ở nước ta về giải thích điều ước quốc tế thật sự đúng nghĩa mới bắt đầu từ những năm gần đây, tính từ khi Việt Nam gia nhập Công ước Viên 1969 về Luật điều ước quốc tế giữa các quốc gia và ban hành Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005. Vấn để giải thích điều ước quốc tế tại Việt Nam không nằm ngoài phạm vi và khuôn khổ các quy định về giải thích Điều ước quốc tế của Công ước Viên 1969, nó được thể hiện chính thức và chủ yếu trong Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 của nước ta.
Hệ thống văn bản pháp luật có chứa đựng nội dung về mặt pháp lý của hoạt động giải thích điều ước quốc tế có thể kể đến: Pháp lệnh về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế các năm 1989, 1998; Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài năm 1993; Nghị định số 161/1999/NĐ-CP ngày 18-10-1999 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số Điều của Pháp lệnh về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế; Thông tư liên ngành số 04/TTLN ngày 24-7-1993 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện một số quy định của Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài; Thông tư số 01/1999/TT-BNG ngày 03-6- 1999 của Bộ Ngoại giao quy định thể lệ hợp pháp hóa giấy tờ, tài liệu; Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011, Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, Nghị định số 15/2008/NĐ-CP ngày 04-02-2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao …vv.
Cơ sở pháp lý về giải thích điều ước quốc tế tập trung ở các nội dung sau đây:
Thứ nhất, về nguyên tắc cơ bản của giải thích điều ước quốc tế được xác định nguyên tắc về nội dung, thể thức điều ước quốc tế được giải thích phù hợp với pháp luật quốc tế về giải thích điều ước quốc tế. Điều ước quốc tế phải được giải thích phù hợp với tinh thần, mục đích và nội dung của điều ước quốc tế và nghĩa thông thường của những thuật ngữ được sử dụng trong điều ước quốc tế đó, không được làm phương hại đến việc thực hiện điều ước quốc tế. Các văn bản điều ước quốc tế mang ngôn ngữ của các quốc gia ký kết có giá trị như nhau, trong trường hợp nảy sinh bất đồng trong việc giải thích điều ước quốc tê đó, thì văn bản tiếng Anh sẽ được dùng làm cơ sở.
Thứ hai, chủ thể có thẩm quyền giải thích điều ước quốc tế là Ủy ban thường vụ Quốc hội. Ủy ban thường vụ Quốc hội giải thích điều ước quốc tế do Quốc hội quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập. Trường hợp các Điều ước quốc tế có quy định trái hoặc chưa được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội; điều ước quốc tế để thực hiện cần sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội sẽ do Ủy ban thường vụ Quốc hội giải thích. Ngoài ra, Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ giải thích Điều ước quốc tế trong trường hợp cần thiết khác theo quy định tại khoản 1 Điêu 76 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005.
Chủ thể thứ hai có thẩm quyền giải thích Điều ước quốc tế là Chính phủ. Chính phủ giải thích Điều ước quốc tế trong các trường hợp Chính phủ quyết định việc giải thích điều ước quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước và nhân danh Chính phủ, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này khoản 2 Điều 76 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005.
So với Pháp lệnh về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế năm 1989 và năm 1998, thì chủ thể có thẩm quyền giải thích điều ước quốc tế hiện nay có sự thu hẹp hơn, tại Pháp lệnh năm 1998, Điều 29 chủ thể có thẩm quyền giải thích điều ước quốc tế còn gồm: Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao giải thích Điều ước quốc tế do Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ký kết; Các Bộ, ngành giải thích điều ước quốc tế được ký kết với danh nghĩa Bộ, ngành, tức là có thể nói điều ước quốc tế do chủ thể nào ký kết thì chủ thể đó có quyền giải thích.
Trước đây, khi giải thích điều ước quốc tế, các chủ thể có thẩm quyền phải tuân thủ theo quy định tại điểm 2 Điều 75 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 theo hướng văn bản điều ước quốc tế và các phụ lục kèm theo điều ước quốc tế đó. Các thỏa thuận có liên quan đến điều ước quốc tế của toàn bộ thành viên điều ước quốc tế khi ký kết điều ước quốc tế đó.
Văn kiện có liên quan đến Điều ước quốc tế do thành viên điều ước quốc tế đưa ra khi ký kết điều ước quốc tế đó và được các thành viên chấp nhận. Thỏa thuận về việc giải thích hoặc thực hiện các quy định của điều ưồc quốc tế giữa các thành viên điều ước quốc tế sau khi ký kết điều ước quốc tế đó.
Thực tiễn giải thích điều ước quốc tế được các thành viên công nhận và quy định của pháp luật quốc tế được áp dụng trong quan hệ giữa các thành viên Điều ước quốc tế. Ngoài ra, trong trường hợp đã áp dụng những căn cứ nêu trên để giải thích nhưng kết quả vẫn chưa rõ ràng hoặc bất hợp lý thì cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào việc chuẩn bị điều ước quốc tế, hoàn cảnh ký kết điều ước quốc tế và những căn cứ khác để giải thích.
2. Đánh giá kết quả
Các điều ước quốc tế Việt Nam đã ký kết, gia nhập, ở một góc độ nhất định, đã được giải thích có hiệu quả. Tuy nhiên, chưa thể thống kê những điều ước quốc tế đã được giải thích cũng như diễn biến, nội dung của từng trường hợp điều ước quốc tế được giải thích trong thực tế. Sở dĩ như vậy vì, một mặt, Bộ Ngoại giao được giao: "Tổ chức biên soạn và ấn hành Niên giám Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập" theo quy định tại điểm d Điều 20 Nghị định số 15/2008/NĐ-CP ngày 04-02-2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao, nhưng chưa có quy định cụ thể nào về việc báo cáo, phản hồi lại Bộ Ngoại giao các sản phẩm điều ước quốc tế đã được giải thích, các sản phẩm giải thích điều ước quốc tế, mặt khác, chủ thể chính thức có thẩm quyền giải thích điều ước quốc tế quy định trong Luật ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế năm 2005 là ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, nhưng trong thực tế, các Bộ khi thực hiện điều ước quốc tế trong phạm vi thẩm quyền chuyên môn, lĩnh vực của mình, vẫn được ủy quyền tự giải thích các vấn đề, nội dung nhất định, nghĩa là ở nước ta chưa thật sự quan tâm và đề cao việc quản lý nhà nước về nhiệm vụ này.
Việt Nam đã gia nhập tổ chức WTO, trước yêu cầu ngày càng cao và khắc nghiệt của lĩnh vực thương mại này, chất lượng và cường độ của giải thích điều ước quốc tế đều phải chú ý. Việc áp dụng các điều ước quốc tế, các vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài thòi gian qua mà Việt Nam, hoặc các doanh nghiệp của Việt Nam là một bên của tranh chấp, có thể thấy rằng, kỹ năng giải thích điều ước quốc tế của ta còn nhiều bất cập, nhiều vụ việc do thiếu kinh nghiệm giải thích, do trình độ giải thích hạn chế, mà các doanh nghiệp của Việt Nam phải chịu nhiều thiệt thòi. Do vậy, để khắc phục tình trạng non yếu trong việc giải thích điều ước quốc tế, cần phải có một cơ chế về giải thích điều ước quốc tế cụ thể, thiết thực và cần phải tăng cường học hỏi, nâng cao trình độ và ý thức trách nhiệm để bảo đảm chất lượng hoạt động giải thích điều ước quốc tê khi có nhu cầu.