Đối với một nền kinh tế được đặc trưng bởi lạm phát cao và tăng trưởng kinh tế thấp, dường như ổn định thành công là một tiền đề quan trọng nhất để chuyển sang tăng trưởng bền vững. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm gần đây của hầu hết các nền kinh tế đang phát triển, điều này có vẻ như ngược lại.
Trong trường hợp Bô-li-vi-a, chương trình ổn định đưa ra vào năm 1985 đã làm giảm tỷ lệ lạm phát ngay lập tức, nhưng mức sản xuất và tốc độ tăng trưởng lại không tăng đáng kể. Nếu như nền kinh tế Bô-li-vi-a chủ yếu dựa vào các biện pháp ổn định chính thống như cố định tỷ giá hối đoái và thắt chặt tài chính (Morales và Sachs, 1990), thì tình hình ở các nền kinh tế sử dụng các biện pháp ít chính thống hơn, gồm cả chính sách thu nhập, cũng không khác mấy. Chúng ta có thể thấy rõ điều này nếu xem xét các chương trình ổn định ở Ác-hen-ti-na vào năm 1985 (Dornbusch và de Pablo. 1990), ở Itx-ra-en vào năm 1985 (Bruno và Piterman, 1988) hoặc ở Ba Lan vào năm 1990 (Lipton và Sachs, 1990). Trong tất cả các trường hợp này, trong khi các chương trình đều rất thành công trong việc giảm tỷ lệ lạm phát, thì mức sản xuất và việc làm thực tế lại không tăng đáng kể hoặc hoàn toàn không thấy có dấu hiệu chuyển sang tăng trưởng bền vững.
Có nhiều nguyên nhân dễ hiểu có thể lý giải cho những kết quả không mấy mỹ mãn này. Thứ nhất, việc pha trộn giữa chính sách ổn định và chính sách cơ cấu có thể là không thích hợp. Mặc dù đa số tán thành sử dụng chính sách điều chỉnh cơ cấu tiếp sau chính sách ổn định, nhưng tuỳ theo điều kiện thực tế, rất có thể việc sử dụng hai chính sách này đồng thời hay kế tiếp nhau theo trình tự ngược lại sẽ thích hợp hơn. Thứ hai, có thể đặt vấn đề nghi ngờ chính cách thức ổn định. Các biện pháp ổn định quá khắt khe rất có thể sẽ triệt tiêu động cơ khuyến khích mỗi đơn vị phát triển sản xuất. Chính sách ổn định cũng có thể cản trở các quyết định đầu tư nếu như chúng gây ra mất ổn định về chính trị và xã hội. Thứ ba, nên chẳng cần xem xét lại các biện pháp điều chỉnh Cơ cấu được thực hiện sau các biện pháp ổn định. Việc điều chỉnh chậm trong các doanh nghiệp nhà nước có thể ngại lớn cho tăng trưởng. Thời biểu và cách thức phát hành tiền, do lãi suất thực tế tăng sau khi ban hành các biện pháp ổn định, có thể cũng đóng một vai trò quan trọng (Dornbush và Tisher 1986). Nên chẳng cần có một khoảng thời gian đủ dài trước khi thực hiện các biện pháp điều chỉnh cơ cấu (Sachs, 1987).
Bài viết này sẽ phân tích đến quan hệ giữa ổn định và tăng trưởng bằng cách xem xét hoạt động của nền kinh tế Nhật Bản ngay sau khi chiến tranh kết thúc. Việc này rất có ý nghĩa bởi vì nền kinh tế Nhật Bản đã thể hiện chiều hướng gia tăng mạnh về mức độ sản xuất và hoạt động kinh tế thực tế không chỉ sau khi thực hiện thành công chương trình ổn định mà còn ngay cả trong quá trình thực hiện chính sách đó. Ở đây có ý kiến cho rằng kết quả, tương đối ngoại lệ, này của nền kinh tế Nhật Bản trong giai đoạn 1945 - 50 có được là nhờ bản chất hướng về tăng trưởng của các biện pháp ổn định.
Nền kinh tế Nhật Bản đã sử dụng bốn biện pháp ổn định sau:
Thứ nhất, đông kết tiền gửi được thực hiện từ tháng 2 và 3 năm 1946 đến tháng 7 năm 1947.
Thứ hai, hệ thống sản xuất ưu tiên (Keisha Seisan Hoshi: PPS) được sử dụng để phá vỡ tình trạng bế tắc sản xuất từ giữa năm 1947 đến tháng 3 năm 1949.
Thứ ba, kiểm soát giá cả bằng trợ giá và kìm giá lần đầu được thực . hiện vào tháng 3 năm 1946 và được áp dụng rộng rãi từ tháng 7 năm 1947 đến tháng 3 năm 1951.
Thứ tư, các biện pháp ổn định chính thống như thắt chặt tài chính và chuyển sang một tỷ giá hối đoái cố định duy nhất bắt đầu được thực hiện từ tháng 4 năm 1951.
Trong bốn biện pháp trên, biện pháp thứ nhất rất hữu hiệu trong việc giảm tỷ lệ lạm phát, nhưng lại chỉ có vai trò hạn chế do bản chất tạm thời của nó và chưa có kết luận gì về ảnh hưởng của biện pháp thứ hai. Mặc dù có ý kiến cho rằng Hệ thống sản xuất ưu tiên rất có hiệu quả trong việc tăng sản xuất “các mặt hàng đình trệ” nhưng nhưng các nhà phân tích lại không cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa việc tăng tín dụng và tăng sản xuất. Hơn nữa, tác động của sản xuất đối với việc ổn phần do ảnh hưởng này đối với nhu cầu thái quá còn nhỏ vì khuynh hướng cận biên muốn tiêu hết thu nhập tăng thêm, trong điều kiện thiếu gay gắt hàng hoá hẳn là rất lớn. Bên cạnh đó, sản xuất tăng đồng thời với việc mở rộng nguồn cung cấp tiền mặt do tín dụng được trợ cấp sẽ làm lạm phát tăng thêm. Các biện pháp ổn định chính thống đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thành quá trình ổn định này. Tác động kìm giữ của tỷ giá hối đoái cố định có vai trò cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên, cũng không nên thổi phồng tác dụng của việc thắt chặt tài chính do ba nguyên nhân sau:
Một là vì các khoản trợ giá là nguyên nhân chính gây ra thâm hụt tài chính, nên đương nhiên chúng sẽ giảm một khi biện pháp thứ ba đạt được mục tiêu của mình.
Hai là dù thâm hụt ngân sách và phát hành giấy bạc Ngân hàng Nhật Bản (BOS) được cắt giảm nhanh chóng, nhưng bù vào đó, việc tăng các khoản tín dụng của Ngân hàng thương mại sẽ làm tăng cung cấp tiền mặt (M2).
Ba là tỷ lệ lạm phát đã bắt đầu giảm từ trước khi ban hành biện pháp này.
Có thể thấy rằng hệ thống định giá và kìm giá, hoạt động theo các biện pháp 3 và 4 nói trên, là cực kỳ quan trọng trong việc giảm tỷ lệ lạm phát đồng thời với việc nâng cao mức độ sản xuất. Các nhà phân tích chính sách tại thời điểm đó cho rằng, các biện pháp này thành công là nhờ bốn yếu tố sau:
Một là, việc tìm giá không chỉ nhằm ổn định mức giá danh nghĩa mà còn cố gắng đặt ra hoặc đạt được một hệ thống giá cả tương đối phù hợp với những lúc "bình thường".
Hai là, các khoản trợ cấp giá có quan hệ mật thiết với mức sử dụng công suất và được dùng để hướng dẫn mức độ sản xuất.
Ba là, các khoản trợ giá được định sao cho các đơn vị sản xuất có thể giữ lại nguồn nhân lực có chuyên môn đang nhàn rỗi phòng khi mức sản xuất tăng lên trong tương lai sẽ phải sử dụng đến.
Bốn là, việc kìm giá nhiều lần được thực hiện nhằm duy trì sự thống nhất của kiểm soát và tránh những ảnh hưởng lan tràn. Mặc dù thị trường quyết định mức lương, nhưng mức lương chuẩn cho từng ngành lại có liên quan chặt chẽ với các khoản trợ giá và từ tháng 4 năm 1949, việc cố định tỷ giá hối đoái là biện pháp mạnh nhất để kìm giá thương mại.
Rõ ràng hệ thống kiểm soát và kìm giá nói trên đã hướng mạnh vào phục hồi và hiệu quả sản xuất. Chính sách hướng vào tăng trưởng hay sản xuất này là chìa khoá để hiểu được kinh nghiệm ổn định đồng thời với tăng trưởng của Nhật Bản có thể nghiên cứu cho phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn sau khủng khoảng bởi dịch bệnh COVID-19.[1]
Tài liệu tham khảo
1. II Bolivia's Economic Crisis, Morales & Sachs, 1990.
2. The Process of High Inflation, Rudiger Dornbusch & Juan Carlos de Pablo, 1990.
3. When politics matter: Economic stabilization in Argentina and Israel, Bruno & Piterman, 1988
4. Creating a Market Economy in Eastern Europe: The Case of Poland, Lipton & Sachs, 1990.
[1] Vì vậy xin giới thiệu các bài nghiên cứu phân tích và tổng hợp về kinh nghiệm cải cách kinh tế của Nhật Bản trong hệ thống cơ sở dữ liệu bồi dưỡng của Trung tâm Bồi dưỡng đại biểu dân cử.