1. Sự vận động của cấu trúc an ninh tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương trước năm 2010
1.1 Giai đoạn Chiến tranh lạnh
Cấu trúc an ninh khu vực trong hai thập niên đầu của Chiến tranh lạnh được định hình bởi hai tập hợp lực lượng đối lập giữa một bên là Mỹ và các nước đồng minh, còn một bên là Liên Xô, Trung Quốc và các nước đang tiến hành cuộc chiến tranh chống xâm lược của Mỹ và một số nước phương Tây.
Để thực hiện chính sách chống chủ nghĩa cộng sản, Mỹ đã thành lập Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) và ủng hộ, viện trợ tất cả các quốc gia, vùng lãnh thổ trong khu vực có xu hướng “chống cộng”. “Viện trợ và nhận viện trợ” là một đặc điểm nổi bật trong quan hệ giữa Mỹ và các đồng minh như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Philippin trong giai đoạn này. Thông qua viện trợ, Mỹ từng bước tạo ra sự phụ thuộc chặt chẽ để chi phối, lôi kéo các nước này tạo thế” cân bằng quyền lực” cho Mỹ tại khu vực.
Chuyển sang giai đoạn cuối thập niên 1960, đầu thập niên 1970, cấu trúc an ninh khu vực lại có sự thay đổi khi Trung Quốc theo đuổi chính sách vừa chống Mỹ, vừa chống Liên Xô do sự rạn nứt nghiêm trọng trong quan hệ Xô - Trung mà đỉnh điểm là xung đột quân sự tại biên giới giữa hai nước. Bối cảnh đó đã khiến các quốc gia nhỏ và vừa trong khu vực Đông Nam Á xích lại gần nhau, tìm kiếm hợp tác để tránh bị lôi kéo, phụ thuộc vào quan hệ đối đầu và thỏa hiệp của các nước lớn. Sự ra đời của ASEAN với 5 thành viên ban đầu là Inđônêxia, Malaixia, Philippin, Thái Lan và Xingapo là một dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của cấu trúc an ninh khu vực giai đoạn này. Với Tuyên bố về Khu vực Hòa binh, Tự do và Trung lập (ZOPFAN, 1971) và Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC, 1976), ASEAN đã chính thức xác lập vị thế trung lập, thân thiện nhưng không liên kết quân sự, vì hòa bình và ổn định khu vực.
Tuy nhiên, sự thay đổi trong quan hệ “tam giác” Mỹ - Trung Xô ở những năm cuối thập niên 1970, đầu thập niên 1980 theo hướng Mỹ - Trung liên kết chống Liên Xô đã tạo ra những chuyển biến lớn trong cấu trúc an ninh khu vực. Các quốc gia ở Đông Nam Á bị chia rẽ thành hai phía giữa một bên là ba quốc gia trên bán đảo Đông Dương và một bên các thành viên ASEAN đang nghiêng dần về Mỹ và phương Tây. Một số cuộc xung đột vũ trang cục bộ đã xảy ra, gây bất ổn cho khu vực.
Đánh giá về cấu trúc an ninh tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương giai đoạn Chiến tranh lạnh, nhiều học giả cho rằng cấu trúc an ninh khu vực chuyển dịch theo sự điều chỉnh của mối quan hệ “tam giác” Mỹ - Trung - Xô, trong đó phần lớn thời gian Trung Quốc đóng vai trò như một “con lắc” dao động giữa hai cực Mỹ và Liên Xô, lợi dụng xung đột giữa hai siêu cường này để đạt mục tiêu phát triển và tạo dựng vị trí của mình trong trật tự thế giới và khu vực.
1.2 Giai đoạn từ sau Chiến tranh lạnh kết thúc đến trước năm 2010
Cấu trúc an ninh khu vực giai đoạn này đặc trưng bởi bốn yếu tố quan trọng là vị trí lãnh đạo và siêu cường số một của Mỹ tại khu vực; sự phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc; vai trò gia tăng của ASEAN và sự phát triển mạnh mẽ của các thể chế đa phương trong khu vực.
Hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ và Liên Xô tan rã đã đưa Mỹ lên vị trí siêu cường số một thế giới, cho phép nước này trở thành nhân tố lãnh đạo và dẫn dắt các cơ chế hợp tác về an ninh chính trị, quân sự ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó chủ yếu là hợp tác song phương. Bên cạnh củng cố quan hệ chặt chẽ với các đồng minh truyền thống là Nhật Bản, Hàn Quốc, Ôxtrâylia, Philippin và Thái Lan, Mỹ quan tâm tìm kiếm và mở rộng quan hệ hợp tác an ninh, quân sự với các đối tác tiềm năng ở khu vực như Xingapo, Inđônêxia, Malaixia, Ấn Độ để mở rộng ảnh hưởng trong khu vực.
Bên cạnh yếu tố Mỹ, sự phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc cũng tác động mạnh đến sự thay đổi trong cấu trúc an ninh khu vực ở giai đoạn này. Trung Quốc bắt đầu thiết lập ảnh hưởng của mình trong khu vực thông qua đẩy mạnh hợp tác an ninh với các quốc gia xung quanh; tham gia các diễn đàn chính trị, kinh tế, an ninh khu vực, tham gia “làm dịu” tình hình ở bản đảo Triều Tiên, bình thường hóa và tăng cường quan hệ với các nước láng giêng là đối tác đối thoại với ASEAN, tham gia Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) và chủ trương “gác tranh chấp cùng khai thác” ở quần đảo Trường Sa, Trung Quốc bắt đầu nổi lên như một nhân tố có khả năng cạnh tranh trực tiếp với vai trò chủ chốt của Mỹ trong cấu trúc an ninh tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Trong cục diện đó, ASEAN đã tiến hành các hoạt động để khẳng định vị trí của mình trong tham gia định hình cấu trúc an ninh khu vực. Năm 1999, ASEAN thực hiện thành công ý tưởng xây dựng một ASEAN gồm đủ 10 quốc gia Đông Nam Á. Bên cạnh tăng cường mối liên kết nội khối ASEAN đã chủ động thúc đẩy các tiến trình đối thoại đa phương ở khu vực về hợp tác an ninh - chính trị với các ý tưởng về những khuôn khổ hợp tác đa dạng cung như thiết lập quan hệ tham vấn với một loạt tổ chức quốc tế và khu vực.
Với vai trò tích cực của ASEAN, cấu trúc an ninh tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương giai đoạn này đã xuất hiện một loạt cơ chế hợp tác đa phương về an ninh, quân sự như Hợp tác ASEAN và từng bên đối thoại (ASEAN + 1), Hợp tác ASEAN và Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc (ASEAN + 3), ARE ADMM... kèm theo đó là các công cụ pháp lý như Tuyên bố ASEAN về Biển Đông (Tuyên bố Manila) (1992), Hiệp ước Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ) (1995), Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) (2002)... Các diễn đàn hợp tác này đã trở thành “sân chơi” chung thu hút sự tham gia của các nước lớn trong khu vực, có tác dụng điều hòa lợi ích và sự cạnh tranh giữa các bên tham gia.
2. Đặc điểm cấu trúc an ninh tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương
2.1 Cấu trúc an ninh khu vực được hình thành và vận động trên cơ sở cân bằng quyền lực
Trong giai đoạn Chiến tranh lạnh, cấu trúc an ninh khu vực chịu sự tác động mạnh mẽ của cuộc cạnh tranh quyền lực Mỹ - Xô với hệ thống đồng minh và tập hợp lực lượng của mỗi bên. Trung Quốc chuyển động giữa hai cực, tận dụng mọi cơ hội để phát triển đồng thời khẳng định vai trò của mình trong trật tự khu vực. Tuy nhiên, với mạng lưới đồng minh thân thiết, chặt chẽ và ổn định theo mô hình “Trục và Nan hoa”, Mỹ chiếm ưu thế về tương quan lực lượng và ảnh hưởng so với Liên Xô tại châu Á - Thái Bình Dương và trở thành nhân tố chi phối sự vận động của cấu trúc an ninh khu vực.
Giai đoạn từ sau Chiến tranh lạnh đến năm 2010, vai trò chủ chốt, chi phối của Mỹ đối với cấu trúc an ninh khu vực được củng cố hơn khi Mỹ là siêu cường duy nhất trên thế giới. Cấu trúc “Trục và Nan hoa” vẫn tiếp tục được duy trì và nâng tầm theo hướng vừa củng cố quan hệ giữa “trục” và “các nan hoa” truyền thống, vừa tăng cường quan hệ giữa các “nan hoa” với nhau hoặc mở rộng quan hệ giữa “nan hoa” và các đối tác phù hợp trong khu vực để tạo nên mạng lưới an ninh rộng lớn xoay xung quanh “trục” Mỹ.
Xuyên suốt trong giai đoạn này, Mỹ vẫn duy trì vị trí lãnh đạo chi phối, tuy nhiên Trung Quốc đang ngày càng nổi lên như một nhân tố thực sự quan trọng, tạo ra sự thay đổi tích cực trong cấu trúc an ninh khu vực. Trong khi thế và lực của Mỹ bị ảnh hưởng đáng kể do bị sa lầy trong cuộc chiến chống khủng bố tại Irắc và Apganistan và tác động nặng nề từ cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu 2008 - 2009, kinh tế Trung Quốc năm 2010 tăng trưởng 10,3 % đạt mức 39,8 nghìn tỉ NDT, tương đương 6,04 nghìn tỉ USD, vượt qua Nhật Bản, trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, sau Mỹ.
Sự gia tăng quốc lực của Trung Quốc, đặc biệt sức mạnh kinh tế, đã đem đến cho Trung Quốc vị thế mới trong khu vực. Mặc dù chưa thể thay thế được vị trí lãnh đạo của Mỹ nhưng Trung Quốc đã thể hiện vai trò “nước lớn có trách nhiệm” với các nước Đông Nam Á, nhất là trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1998 - 1999; tham gia thiết kế “luật chơi” và trật tự khu vực, tạo nên một môi trường an ninh mới trong đó vị thế và ảnh hưởng của Trung Quốc ngày càng lớn hơn. Cấu trúc an ninh khu vực chịu tác động của mối quan hệ giữa một siêu cường tại vị và một cường quốc vươn lên tranh chấp địa vị siêu cường. Hợp tác đi đôi với đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau là đặc điểm nổi bật trong giai đoạn này, tuy nhiên mặt hợp tác nổi trội hơn do Trung Quốc chưa đủ sức đe dọa vị trí số một của Mỹ.
2.2 Cơ chế hợp tác đa phương phát triển hơn, ASEAN xác lập vị trí quan trọng hơn trong cấu trúc an ninh khu vực
Bên cạnh các cơ chế hợp tác song phương, cấu trúc an ninh tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương giai đoạn trước năm 2010 còn được định hình bởi hệ thống các cơ chế đa phương ngày càng phát triển và mở rộng dưới sự dẫn dắt của nhiều chủ thể khác nhau như các cơ chế tập trận chung Vành đại Thái Bình Dương (RIMPAC) do Mỹ khởi xướng năm 1971, Malabar (Mỹ - Nhật Bản - Ấn Độ) bắt đầu từ năm 1992, cơ chế đối thoại an ninh bốn nước Mỹ - Nhật Bản - Ấn Độ - Ôxtrâylia ( 2007), Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) thành lập năm 2001 theo sáng kiến của Trung Quốc, Diễn đàn đảo Thái Bình Dương (PIF - 1971) hay Hiệp hội Hợp tác khu vực Nam Á (SAARC, 1985) do các nước vừa và nhỏ khởi xướng. Đặc biệt, các Cơ chế do ASEAN thiết lập hoặc dẫn dắt như Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM, 1996), ASEAN + 3 (2000), EAS (2005), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM - 2006) ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn.
Các cơ chế an ninh đa phương do ASEAN dẫn dắt đã thu hút sự tham gia của nhiều nước lớn trong khu vực, từ đó phát huy vai trò trong việc duy trì ổn định của khu vực, giảm bớt các nguy cơ xảy ra xung đột tại các điểm nóng”. Những cơ chế này hoạt động chủ yếu dựa trên nguyên tắc tự nguyện, không ràng buộc và khu vực chưa có được một cơ chế bao trùm mang tính ràng buộc cao để xử lý các thách thức an ninh nổi lên
Trong bối cảnh tương quan lực lượng Mỹ - Trung thay đổi, ASEAN có cơ hội để xác lập vai trò lớn hơn trong cấu trúc an ninh khu vực thông qua các khuôn khổ, diễn đàn, cơ chế do ASEAN khởi xướng và chủ trì. Theo nhà nghiên cứu See Seng Tan của Trường Đại học Công nghệ Nam Dương (Xingapo), ASEAN có cơ hội để xác lập vai trò trung tâm tại khu vực thể hiện qua các nội dung: (i) giữ vị trí lãnh đạo ở Đông Á, dẫn dắt việc hình thành và vận động của các cơ chế khu vực; (ii) tạo diễn đàn trao đổi, hợp tác của các nước trong khu vực; (iii) đầu mối kết nối chính trong cấu trúc khu vực giữa tất cả các bên vì lợi ích của cả ASEAN và khu vực.
Tuy nhiên, thực tế đến thời điểm 2010, vai trò trung tâm của ASEAN với tư cách là yếu tố trung gian cân bằng giữa các nước lớn, bảo đảm hòa bình, an ninh trong khu vực vẫn còn hạn chế do tác động của nhiều khó khăn, thách thức như sự chia rẽ, thiếu thống nhất nội khối; các mối đe dọa an ninh nổi lên ở khu vực hay sự lôi kéo, gây sức ép của các nước lớn trong khi lại không có nhiều thay đổi tích cực trong cách làm việc và cách tiếp cận, giải quyết các vấn đề mới nảy sinh.
2.3 Sự phân bố lực lượng trong cấu trúc an ninh khu vực từng bước hình thành tầng nấc
Mỹ và Trung Quốc là hai siêu cường giữ vị trí đứng đầu trong tương quan lực lượng tại khu vực, là hai chủ thể chi phối cấu trúc an ninh khu vực, trong đó Mỹ chiếm ưu thế. Tiếp theo là các quốc gia lớn khác gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga, Ấn Độ và Ôxtrâylia, phần lớn là đồng minh của Mỹ nhưng do có mối quan hệ kinh tế ngày càng chặt chẽ với Trung Quốc nên đóng vai trò là nhân tố trung gian, cân bằng trong tương quan Mỹ - Trung. Hầu hết các nước đều theo đuổi chính sách thực dụng do đều có chung lo ngại trước ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc tại khu vực.
ASEAN trở thành nhân tố quan trọng hơn, từng bước phát huy vai trò trung gian điều phối quan hệ giữa các nước lớn, tạo ra các diễn đàn thu hút nước lớn tham gia nhằm duy trì và bảo vệ hòa bình, ổn định tại khu vực. Trong ASEAN, Inđônêxia là quốc gia có ảnh hưởng nhất không chỉ trong khuôn khổ ASEAN mà cả trong quan hệ với các nước lớn. Các thành viên còn lại, do vị thế và điều kiện hạn chế, chú trọng phát triển kinh tế và tăng cường liên kết khu vực để tự bảo vệ. Các liên kết và diễn đàn hợp tác chính trị - an ninh trong khu vực gồm các cơ chế, diễn đàn do ASEAN dẫn dắt và các cơ chế, diễn đàn ASEAN tham gia đều tác động đến các chủ thể tham gia cấu trúc ở những mức độ khác nhau.
Tài liệu tham khảo
1. See Seng Tan: “Rethinking” ASEAN Centrality in the Regional Governance of East Asia, The Singapore Economic Review 62, No.3, 2016