Hiện nay, việc nhập khẩu phế liệu làm nguyên vật liệu sản xuất hầu như các nước trên thế giới không sử dụng, chủ yếu chỉ có Việt Nam và Trung Quốc cùng một số nước đang phát triển khác thực hiện. Việc nhập phế liệu làm nguyên liệu sản xuất có thể làm giảm chi phí sản xuất sản phẩm tuy nhiên lại có thể mang mầm mống của việc lách luật, lách cơ chế nhập phế liệu rác thải tiêu thụ cho các công ty nước ngoài. Trước thực trạng đó, nhằm nâng cao cơ chế quản lý, thắt chặt việc quản lý đối với việc nhập phế liệu làm nguyên liệu sản xuất là một điều thiết yếu trong giai đoạn hiện nay. Do đó, việc nghiên cứu, xem xét, phân tích chính sách trong lĩnh vực này là rất cần thiết nhằm có những cơ chế quản lý chặt chẽ, các chế tài cụ thể để việc nhập phế liệu này đi vào đúng mục đích làm nguyên liệu sản xuất sản phẩm, giảm tải ô nhiễm chất thải công nghiệp độc hại, bảo vệ môi trường.
Phân tích chính sách là một công việc thường xuyên của người quản lý, thông qua hoạt động này người quản lý cần cập nhật tình hình thực hiện chính sách, để từ đó biết được các thay đổi, biến động của xã hội do tác động của chính sách gây ra cũng như thái độ của cộng đồng dân cư trước sự ra đời của một chính sách để từ đó có những quyết nghị phù hợp hoặc cần thiết thay đổi, ban hành chính sách mới.
Phân tích chính sách trong việc nhập phế liệu làm nguyên liệu sản xuất nhằm xem xét tổng thể các chính sách ban hành liên quan tới lĩnh vực này, tác động của nó tới đời sống xã hội, phát triển kinh tế, sản xuất kinh doanh… đặc biệt là tác động của nó tới môi trường sống. Liệu các chính sách đó đã đảm bảo, thắt chặt việc quản lý ô nhiễm môi trường chưa…
Để việc xem xét thực trạng cũng như chính sách liên quan tới việc nhập phế liệu làm nguyên liệu sản xuất trước tiên cần nghiên cứu thực trạng tồn tại của chúng, đánh giá tác động chính sách đối với vấn đề này, nguyên nhân và cách khắc phục.
Phân loại chất thải rắn, lựa chọn các thành phần hữu ích chứa trong chất thải rắn công nghiệp và sinh hoạt ở trong nước để tái chế, tái sử dụng, làm nguyên liệu để sản xuất là một chủ trương hết sức đúng đắn, được ưu đãi, khuyến khích áp dụng ở hầu hết các nước trên thế giới. Nhưng nhập khẩu phế liệu từ nước ngoài đế làm nguyên liệu sản xuất thì trong thời gian qua chỉ có Việt Nam, Trung Quốc và một vài nước khác thực hiện. Bởi vì bản chất phế liệu cũng là chất thải, dù đã được phân loại, chọn lọc và được gọi là phế liệu, nhưng bao giờ nó cũng hàm chứa một phần nhiều hoặc phần ít chất thải ô nhiễm độc hại. Mặt khác, khi sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất thì trong quá trình sản xuất sẽ thải ra chất thải độc hại hơn. Đơn giản như là khi nung luyện tái chế các vỏ lon bia, lon nước giải khát thì các hóa chất và kim loại nặng chứa trong lớp vỏ phủ sơn các lon này sẽ bị đốt cháy và phát sinh nhiều loại khí thải độc hại. Giấy phế liệu thường chứa nhiều hóa chất độc hại, như là mực in, keo dán và các nhiều chất đánh bóng. Đây là các hóa chất độc hại cần phải loại bà khi tái chế giấy. Nếu tái chế phế liệu giấy thành giấy trắng thì còn phải tẩy trắng phế liệu bằng hydrogen peroxide, hay chlorine dioxide.... vì thế nước thải phát sinh từ tái chế giấy bằng phế liệu giấy sẽ chứa nhiều hóa chất độc hại hơn nước thải từ sản xuất giấy bằng nguyên liệu bột giấy.
Qua kiểm tra cho thấy, có khoảng 20.600 container phế liệu đang tồn đọng (không có người nhận) tại Cảng Cát Lái (Thành phố Hồ Chí Minh), Cảng Hải Phòng, các cảng biển khác, và ở các cửa khẩu biên giới, trong đó có tới 10.200 container phế liệu tồn đọng quá hạn trên 90 ngày, đã làm cho rất nhiều người lo ngại rằng nước ta sẽ trở thành “bãi chất thải của các nước phát triển”.
Tại cuộc họp thường trực của Chính phủ về tình hình nhập khẩu phế liệu vào Việt Nam và các giải pháp quản lý tháng 8/2018, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã yêu cầu các Bộ, ngành liên quan tiếp thu ý kiến để ngăn chặn tốt hơn nữa tình trang nhập phế liệu được đánh giá là nghiêm trọng, nhất là hàng nghìn container phế liệu nhập khẩu còn đang tồn đọng tại các cảng biển.
-
Tình trạng nhập khẩu phế thải vào nước ta trong thời gian qua là đáng báo động
Tổng số các doanh nghiệp nhập khẩu và sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất trên cả nước tính đến năm 2018 là 256 doanh nghiệp. Trong đó, số lượng doanh nghiệp nhập khẩu phế liệu để trực tiếp phục vụ sản xuất là 153 doanh nghiệp (chiếm 59,76% tổng số doanh nghiệp nhập khẩu phế liệu), số lượng doanh nghiệp nhập khẩu ủy thác là 103 doanh nghiệp (chiếm khoảng 40,24%).
Mặc dù đã có nhiều cố gắng quản lý ngăn chặn, song vẫn còn hiện tượng một số tổ chức, cá nhân lợi dụng việc nhập khẩu phế liệu. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan chỉ trong vòng 3 năm, từ năm 2011 đến năm 2013, số lượng các vụ vì phạm nhập khẩu chất thải nguy hại trái phép đã diễn ra rất phức tạp, cụ thể: năm 2011 phát hiện 17 vụ với khối lượng chất thải nguy hại thu giữ là 573 tấn, năm 2012 phát hiện 30 vụ với khối lượng thu giữ 3.868 tấn chất thải nguy hại và tính đến tháng 7/2013 phát hiện 13 vụ với khối lượng chất thải nguy hại thu giữ là 323 tấn.
Năm 2016, khối lượng sắt thép phế liệu nhập khẩu ở nước ta là 2,7 triệu tấn, năm 2017 đã tăng lên gần 2 lần là 5,2 triệu tấn; giấy phế liệu từ 338 nghìn tấn tăng lên gần 4 lần là 1,3 triệu tấn; nhựa phế liệu còn tăng tới 5 lần, từ 18 nghìn tấn tăng lên 90 nghìn tấn. Báo cáo của Quốc hội về công tác bảo vệ môi trường năm 2018, 1,3 triệu tấn; nhựa phế liệu còn tăng tới 5 lần, từ 18 nghìn tấn tăng lên 90 nghìn tấn. Báo cáo của Quốc hội về công tác bảo vệ môi trường năm 2018, Chính phủ cho biết tổng khối lượng phế liệu nhập khẩu vào Việt Nam năm 2018 là hơn 9,2 triệu tấn, tăng hơn 1,3 triệu tấn so với năm 2017. Thông qua việc nhập khẩu phế liệu này, nhiều sản phẩm có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường như: máy móc, thiết bị lạc hậu cũ, hỏng, các loại nhựa phế thải hàm chứa hóa chất độc hại, các linh kiện điện tử phế liệu có chứa chất thải nguy hại... đã được nhập khẩu trái phép vào nước ta. Việc nhập khẩu phế liệu thời gian qua ồ ạt như vậy chính là do mua phế liệu rất rẻ tiền, đôi khi người ta còn cho không hoặc trả thêm chi phí để chuyên chở chất thải ra khỏi đất nước của họ, do lợi ích kinh tế lớn được mang lại như vậy mà các cơ sở sản xuất ở nước ta thời gian qua đã tạo ra sức ép lớn đối với Nhà nước để nhập khẩu phế liệu ồ ạt làm nguyên liệu sản xuất.
Thực chất của việc nhập phế liệu làm nguyên liệu này không thể tránh được tình trạng “hy sinh môi trường chung để cơ sở sản xuất kiếm lời kinh tế”, thực tế có thể là “lợi bất cập hại”.
-
Nguyên nhân của nhập khẩu phế liệu ô nhiễm và sự tồn đọng hàng nghìn container phế liệu tại cảng biển
Việc tồn đọng hàng nghìn container phế liệu tại cảng Cát Lái và Cảng Hải Phòng hiện nay là vấn đề hết sức bức xúc và nghiêm trọng về môi trường. Trình trạng này không những cản trở, làm mất khả năng giao thông vận tải thông thoát của cảng mà việc ứ đọng các chất ô nhiễm như vậy là tiền đề biến nước ta thành bãi rác của các nước phát triển.
Nguyên nhân trước hết có thể nói đây là sự yếu kém của công tác quản lý của các cơ quan chức năng nhà nước, sự bất cập của các quy định pháp luật đã ban hành
Trước tiên và hệ trọng nhất là việc cấp phép hiện nay đang quá dễ dàng và có nhiều sơ hở. Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp phép, các Sở Tài nguyên và Môi trường các địa phương cũng có quyền cấp phép là rất khó kiểm soát.
Song song với đó, việc cấp phép nhập khẩu phế liệu cũng cần hết sức thận trọng bởi thời gian qua đã có hiện tượng cấp phép cho những cơ sở “ma”, cơ sở không có nhu cầu thực tế, cũng như không phải là cơ sở sản xuất.
Đồng thời, việc ký quỹ nhập khẩu phế liệu cũng không chuẩn xác, việc ký quỹ hiện nay thực hiện lúc thông quan hàng hóa tại cảng (tức là lúc hàng hóa phế liệu đã được nhập về kho bãi của cảng biển rồi), quy định về thời điểm ký quỹ như vậy là hoàn toàn sai lầm. Bởi vì, nếu cơ sở phong phanh biết được các container phế liệu của mình không bảo đảm đúng quy định, hải quan kiểm tra sẽ bị xử phạt và không cho thông quan, thì họ sẽ không nộp tiền ký quỹ nhập khẩu nữa và tìm cách trốn tránh, bỏ hàng tồn đọng tại cảng.
Theo quy định của Quyết định số 73/2014/QĐ-TTg ngày 19/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ quy định danh mục phế liệu được phép nhập khẩu nước ngoài làm nguyên liệu sản xuất thì các Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ về mặt bảo vệ môi trường, tuân thủ các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về bảo vệ môi trường của các cơ sở sản xuất nhập khẩu phế liệu về làm nguyên liệu sản xuất.
Nhưng thực tế các Sở Tài nguyên và Môi trường chưa thực sự đủ năng lực để hoàn thành trách nhiệm này.
Bên cạnh đó, trong văn bản pháp quy về nhập khẩu phế liệu của nước ta có điều quy định không khả thi, cụ thể là nếu trong trường hợp các container phế liệu nhập về không đủ điều kiện thông quan hàng hóa phế liệu thì cơ quan chức năng có quyền đưa ra quyết định yêu cầu tái xuất, thực tế thì đây là biện pháp không khả thi.
3. Các giải pháp khắc phục
3.1 Trước hết, phải nhanh chóng giải quyết vấn đề hàng nghìn container phế liệu đang tồn đọng ở cảng Cát Lái và cảng Hải Phòng
Các cơ quan quản lý nhà nước như Hải quan, Tổng cục Môi trường và các cơ quan khác có liên quan khác cần phải hợp tác kiểm điểm xem vì sao lại xảy ra hiện tượng tồn đọng hàng nghìn container phế liệu tại cảng như vậy, tìm ra ai là chủ sở hữu của các container tồn đọng đó? Và các container nào không có chủ sở hữu? Vì sao?
Quá trình xử lý vấn đề này trong thời gian qua là quá trì trệ, bởi vì hiện tượng tồn đọng các container phế liệu này đã tồn tại nhiều năm. Vấn đề này cần phải kiểm tra, kiểm điểm nghiêm túc, xác định nguyên nhân để kịp thời sửa chữa, cũng như tìm ra giải pháp một cách khả thi phù hợp với tình hình kinh tế cũng như vẫn bảo đảm bảo vệ môi trường.
Nếu xác định được chủ sở hữu thì giao cho các cơ sở sản xuất là chủ sở hữu đó phải nộp phạt và có trách nhiệm xử lý các container chất thải vi phạm đó, đồng thời giao cho Sở Tài nguyên và Môi trường địa phương theo dõi, kiểm tra chặt chẽ các cơ sở sản xuất này trong quá trình họ xử lý và sử dụng phế thải này trong sản xuất, yêu cầu họ phải xử lý chất thải một cách an toàn theo đúng quy định về bảo vệ môi trường. Đối với các container tồn đọng vô chủ sở hữu thì cơ quan quản lý nhà nước để xảy ra tình trạng vô chủ như vậy phải có trách nhiệm xử lý sao cho môi trường an toàn.
3.2 Rà soát, chỉnh sửa các văn bản pháp luật có liên quan để siết chặt các quy định về nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất
Giảm bớt mỗi đầu cấp phép cho nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất;
Chỉ cấp phép cho các cơ sở thực sự có nhu cầu nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, đồng thời cơ sở sản xuất đó phải có đủ điều kiện xử lý ô nhiễm bảo đảm an toàn mỗi trường khi sử dụng phế liệu;
Bỏ quy định cho phép cơ sở nhận ủy quyền nhập khẩu phế liệu (thực chất là phải cấm nhập khẩu phế liệu để bán kiếm lời);
Yêu cầu ký quỹ nhập khẩu phế liệu cũng cần có sự thay đổi. Các cơ sở xin phép nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất cần phải ký quỹ nhập khẩu phế liệu ngay từ khi xin cấp phép đối với từng gói hàng nhập khẩu phế liệu.
3.3 Giảm dần và tiến tới chấm dứt việc nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất
Việc nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất đang có nguy cơ “biến nước ta thành bãi rác của các nước phát triển”, “lợi bất cập hại”. Vì vậy cần đẩy mạnh khuyến khích các cơ sở sản xuất sử dụng phế liệu công nghiệp và sinh hoạt trong nước làm nguyên liệu sản xuất, phát triển công nghệ tái chế, tái sử dụng chất thải rắn trong nước, để giảm dần và tiến tới chấm dứt việc nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, phát triển công nghệ tái chế, tái sử dụng chất thải rắn trong nước, để giảm dần và tiến tới chấm dứt việc nhập phế liệu làm nguyên liệu sản xuất từ nước ngoài.
Như vậy, thông qua việc phân tích thực trạng, phân tích chính sách về nhập phế liệu làm nguyên vật liệu sản xuất trong nước có thể nhận thấy rằng chính sách này chỉ phát huy tích cực ở một giai đoạn phát triển của đất nước. Hiện nay các văn bản quản lý về lĩnh vực này còn hạn chế dẫn tới sự quản lý lỏng lẻo dễ tạo điều kiện để các đơn vị nhập “rác” về mang tính lợi nhuận gây nguy hại tới môi trường tự nhiên ở nước ta. Do đó, trong thời gian tới việc đưa ra các chính sách nhằm giảm dần và tiến tới chấm dứt việc nhập phế liệu làm nguyên liệu sản xuất ở nước ngoài là cần thiết.