Bồi thường thiệt hại là trách nhiệm dân sự của người gây thiệt hại. Bồi thường thiệt hại là một loại quan hệ dân sự phát sinh do lỗi cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức thì người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại cả thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có các điều kiện cần và đủ sau: (i) Có thiệt hại thực tế xảy ra; (ii) Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật; (iii) Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại; (iv) Có lỗi của người gây thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể phân thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Cụ thể như sau:
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự mà một bên trong quan hệ hợp đồng có hành vi vi phạm nghĩa vụ đã quy định trong hợp đồng (không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng) gây ra thiệt hại cho bên kia thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự mà khi một người có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra (giữa họ không tồn tại mối quan hệ hợp đồng).
Nếu căn cứ vào đặc thù của người có hành vi gây thiệt hại, chủ thể bồi thường, có thể phân thành hai loại: (i) Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; (ii) Trách nhiệm bồi thường của các chủ thể dân sự khác.
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là vấn đề mới cả về mặt lý luận và thực tiễn, được đặt ra từ đầu thế kỷ XX. Trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, không một quốc gia nào đặt vấn đề trách nhiệm của Nhà nước vì quan niệm về quyền miễn trừ của Nhà nước, theo đó “vua không thể làm gì sai”, có chăng chỉ có công chức nhà nước mới làm sai. Vì vậy, nếu có thiệt hại xảy ra trong quá trình thi hành công vụ thì trách nhiệm bồi thường thuộc về cá nhân công chức. Tuy nhiên, bản thân công chức gây thiệt hại là do thi hành nhiệm vụ mà Nhà nước giao.
Nguyên tắc chủ quyền miễn trừ cho rằng Nhà nước được hưởng quyền miễn trừ quốc gia nên không thể bị coi là bị đơn trong những vụ kiện yêu cầu bồi thường. Công chức nhà nước xâm phạm quyền lợi hợp pháp của công dân, tổ chức thì đó là hành vi mang tính cá nhân, Nhà nước không phải chịu trách nhiệm bồi thường. Trong số các nước vẫn giữ quan điểm này ở giai đoạn đó có Hoa Kỳ
Trên thực tế, quan điểm này gặp phải khá nhiều vấn đề khó khăn trong áp dụng:
Công chức nhà nước sống dựa vào lương, cá nhân tài lực có hạn, thường không thể bồi thường được những tổn hại gây ra cho người bị thiệt hại, như vậy không bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người bị thiệt hại.
- Nếu công chức nhà nước phải chịu trách nhiệm bồi thường thì trực tiếp ảnh hưởng đến tính tích cực và tính chủ động của họ khi thi hành công vụ. Vì vậy, sẽ là không công bằng khi buộc cá nhân, cô ng chức nhà nước chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do họ gây ra..
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhiều cuộc cách mạng dân chủ đòi quyền lợi chính đáng trong đó có trường hợp quyền và lợi ích bị xâm phạm bị cơ quan công quyền. Vì vậy, Hiến pháp của nhiều nước trên thế giới đã ghi nhận trách, nhiệm bồi thường của Nhà nước và ban hành luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Năm 1909 ở Đức có Luật liên bang về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và cho rằng Nhà nước ủy quyền cho công chức thi hành công vụ vì vậy nếu thiệt hại phát sinh thì Nhà nước phải bồi thường. Trong lĩnh vực thừa hành quyền lực công, nếu người thi hành công vụ gây thiệt hại thì Nhà nước sẽ đứng ra bồi thương thay cho người thi hành công vụ. Ở Mỹ, đến năm 1946 đã có Luật của Liên bang về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước. Còn ở Anh đến năm 1947 đã công nhận trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Mặc dù theo tinh thần của luật dân sự thì người tuyển dụng phải có trách nhiệm bồi thường khi người đó làm thiệt hại, nhưng dưới góc độ bồi thường nhà nước nhiều nước vẫn không thừa nhận trách nhiệm bồi thường của Nhà nước như trách nhiệm tự thân mà chỉ coi Nhà nước là người đứng ra trả thay cho công chức. Trách nhiệm Nhà nước ngày càng được thừa nhận và phát triển, Nhà nước không chỉ đứng ra trả thay mà tự thân chịu trách nhiệm bồi thường.
Tác dụng của chế độ trách nhiệm bồi thường của Nhà nước có ưu điểm là không chỉ người dân bị thiệt hại được bồi thường mà điều quan trọng là hạn chế được sự vi phạm, hành vi trái pháp luật từ cơ quan công quyền, công chức thi hành công vụ. Ngược lại nó có hạn chế là tạo tâm lý e ngại cho cơ quan, công chức nhà nước là sợ làm sai sẽ phải bồi thường. Vì vậy, vấn đề đặt ra là làm sao hạn chế được tiêu cực của chế định này.
Quan hệ pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là quan hệ pháp luật dân sự hay quan hệ pháp luật hành chính. Quan điểm truyền thống mà nhiều quốc gia xác lập khi xây dựng pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thì quan hệ pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là quan hệ pháp luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà một bên chủ thể là Nhà nước. Bên cạnh đó, có một số quan điểm khác cho rằng quan hệ pháp luật này là quan hệ pháp luật hành chính, vì một bên trong quan hệ pháp luật náy là Nhà nước; hoặc quan hệ pháp luật này vừa có tính hành chính, vừa có tính dân sự.
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là trách nhiệm trực tiếp hay trách nhiệm gián tiếp? Đây là vấn đề thể hiện rõ tính chất pháp lý của mỗi quốc gia về việc có thừa nhận hay không trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Khi đặt câu hởi Nhà nước có trách nhiệm bồi thường hay không, thì có hai cách trả lời. Nếu Nhà nước không chịu trách nhiệm bồi thường, thì thay vì ban hành Luật bồi thường của Nhà nước sẽ là Luật bồi thường của cơ quan nhà nước, công chức nhà nước hoặc là xây dựng một luật về phúc lợi xã hội, theo đó Nhà nước không có trách nhiệm phải bồi thường mà sẽ dành một phần ngân sách cho các khoản trợ cấp, hỗ trợ cho nạn nhân. Nếu Nhà nước có trách nhiệm bồi thường, thì sẽ có Luật bồi thường của Nhà nước.
Về trách nhiệm của Nhà nước, có hai cách tiếp cận chủ yếu sau: (i) Trách nhiệm của Nhà nước là trách nhiệm thay thế; (ii) Trách nhiệm của Nhà nước là trách nhiệm trực tiếp. Các cách thức tiếp cận trên khác nhau chủ yếu trong nhận định về hành vi của công chức, theo đó, nếu coi hành vi của công chức là hành vi của Nhà nước thì trách nhiệm của Nhà nước sẽ là trách nhiệm trực tiếp. Ngược lại, nếu coi hành vi của công chức không phải là hành vi của Nhà nước thì trách nhiệm của Nhà nước là trách nhiệm thay thế.
Quan điểm trách nhiệm của Nhà nước là trách nhiệm thay thế cho rằng, hành vi sai là hành vi của công chức và nếu gây thiệt hại thì công chức phải bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, Nhà nước là bên gánh chịu trách nhiệm thay cho công chức vì công chức hành động vì lợi ích của Nhà nước chứ không vì bản thân họ; hành vi của công chức là hành vi công vụ, thực hiện quyền lực nhà nước; nếu quy trách nhiệm cho công chức thì với khả năng tài chính của mình công chức không thể bồi thường và như vậy người bị thiệt hại không được bảo đảm quyền lợi.
Nhà nước với trách nhiệm hiến định là phải bảo vệ công dân nên Nhà nước phải bồi thường. Nếu quy định công chức phải bồi thường thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến tính lành mạnh trong hoạt động của Nhà nước, đó là công chức sẽ lo ngại việc thực hiện công vụ gây thiệt hại và mình phải bồi thường nên họ sẽ không thực hiện công việc của mình.
Trước hết, nếu công chức làm sai và phải bồi thường thì hoàn toàn tự nhiên. Nhưng trong quan hệ nội bộ thì trong một số trường hợp người ta vẫn nói người cha gánh trách nhiệm cho con. Vì vậy, trong một số trường hợp mà Nhà nước phải gánh chịu trách nhiệm cho công chức. Bên cạnh đó, trong khoa học, có quan điểm cho rằng, ai là người hưởng lợi thì người đó phải chịu rủi ro, người làm thuê tạo ra lợi ích cho công ty mà họ làm thuê, công chức tạo ra lợi ích cho Nhà nước, vì vậy Nhà nước là người được hưởng lợi khi công chức thực hiện công vụ, đặc biệt trong các hoạt động có tính cưỡng chế thì những hoạt động này luôn tiềm ẩn nguy cơ rủi ro lớn. Vì vây, nêu Nhà nước yêu cầu công chức phải thực hiện hoạt động có tính rủi ro thì Nhà nước phải chịu rủi ro.
Có quan điểm khác lại cho rằng, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là trách nhiệm trực tiếp. Bởi vì, hành vi của công chức là hành vi của Nhà nước, nên nếu công chức có hành vi gây thiệt hại thì chính là Nhà nước gây thiệt hại hay hành vi sai của công chức là hành vi sai của Nhà nước. Vậy đương nhiên trong trường hợp này trách nhiệm thuộc về Nhà nước. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là Nhà nước có thực sự tồn tại như một thực thể pháp lý hay không. Trước hết cần thừa nhận với nhau rằng, trong xã hội vẫn tồn tại sự sai trái và điều này là hoàn toàn bình thường và vấn đề này nếu áp dụng với con người là điều bình thường.
Nếu áp dụng điều này với Nhà nước thì cần phải tiếp cận dưới góc độ của Bộ luật dân sự và theo quy định của Bộ luật dân sự để xác định trách nhiệm trực tiếp thì trách nhiệm phải là của một người cụ thể nào đó. Vì vậy, nếu không coi Nhà nước là một thực thể pháp lý tồn tại thực sự thì không thể áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự khi xác định trách nhiệm trực tiếp. Ngoài ra, quan điểm về trách nhiệm trực .tiếp, cho phép quy trách nhiệm cho Nhà nước chi trên cơ sở hành vi trái pháp luật và hậu quả mà không cần xét đến yếu tố lỗi.
Vấn đề hoàn trả trong trách nhiệm trực tiếp cũng có cách hiểu khác với trách nhiệm thay thế, vì khi đã coi công chức là một phần của Nhà nước thì không tồn tại việc hoàn trả; tuy nhiên luôn tồn tại mối quan hệ nội bộ giữa công chức và Nhà nước. Nhà nước quy định chế độ công vụ, những quy định khác nghề nghiệp nghiệp vụ cho công chức và công chức phải tuân thủ những quy định này khi thực hiện công vụ. Trường hợp mà công chức gây thiệt hại do vi phạm chế độ công vụ, vi phạm quy định về nghề nghiệp, nghiệp vụ thì công chức phải bồi hoàn cho Nhà nước vì chính sự vi phạm này đã gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước. Như vậy, có thể thấy hoàn trả trong trách nhiệm trực tiếp hoàn toàn khác về bản chất so với bồi hoàn trong trách nhiệm thay thế.
Hiện nay thuyết về trách nhiệm trực tiếp đang chiếm ưu thế trên thế giới, Thuyết này có nhiều ưu điểm so với thuyết về trách nhiệm thay thế nhiều quốc gia hiện nay có pháp luật bồi thường nhà nước đều muốn sửa đổi luật của mình theo hướng trách nhiệm trực tiếp.
Khái niệm bồi thường nhà nước được hiểu là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, vì vậy nhiều quốc gia gọi luật này là Luật về trách nhiệm nhà nước, hay Luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Vậy pháp luật bồi thường nhà nước thuộc lĩnh vực nào? Quan điểm của Nhật Bản và một số quốc gia trên thế giới coi pháp luật bồi thường nhà nước thuộc lĩnh vực pháp luật hành chính chứ không phải thuộc lĩnh vực pháp luật dân sự, và trong giới giảng dạy luật học ở Nhật Bản thì luôn đưa pháp luật bồi thường nhà nước vào giảng dạy cùng với pháp luật hành chính chứ không giảng dạy ở lĩnh vực pháp luật dân sự. Tuy nhiên, giới học giả Nhật Bản vẫn cho rằng bồi thường nhà nước mang bản chất của pháp luật dân sự vì cho rằng hành vi đòi bồi thường phát sinh từ việc khởi kiện trong vụ án dân sự.
Cũng có ý kiến cho rằng, pháp luật bồi thường nhà nước vừa thuộc lĩnh vực hành chính vừa thuộc lĩnh vực dân sự, tuy nhiên, việc phân loại pháp luật bồi thường nhà nước thuộc lĩnh vực nào không có ý nghĩa lớn. Các chuyên gia của Việt Nam nhất trí coi pháp luật bồi thường nhà nước thuộc lĩnh vực pháp luật dân sự và có xu hướng chung coi pháp luật bồi thường nhà nước là sự mở rộng các quy định của Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Về vấn đề Luật bồi thường nhà nước là luật nội dung hay là luật thủ tục cũng có nhiều quan điểm ví dụ, các nước theo hệ thống luật lục địa phần lớn đều coi Luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là luật nội dung, trong khi các nước theo hệ thống luật Anh - Mỹ lại coi là luật thủ tục. Khi coi là luật nội dung thì giới luật học và các học giả tập trung giải quyết các vấn đề như Nhà nước có phải bồi thường hay không, bồi thường như thế nào, quyền và nghĩa vụ của các bên. Khi coi là luật thủ tục thì họ tập trung vào những vấn đề như có thể kiện Nhà nước được không và làm thế nào để khởi kiện Nhà nước...
Nếu pháp luật bồi thường nhà nước là sự mở rộng của Bộ luật dân sự thì có thể hiểu đó là sự mở rộng của trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với hành vi gây thiệt hại của công chức trong quá trình thực thi công vụ. Ngoài ra, có thể hiểu là riêng Bộ luật dân sự không thể điều chỉnh quan hệ bồi thường nhà nước mà phải cần đến Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước với tư cách là một luật điều chỉnh riêng.
Nếu coi pháp luật bồi thường nhà nước là một phần của pháp luật dân sự thì đó cũng là điều bình thường, tuy nhiên có thể dẫn tới sự phản đối là trong khi cùng là pháp luật điều chỉnh những quan hệ có tính bình đẳng lại phải có luật bồi thường nhà nước riêng trong khi Bộ luật dân sự cũng có những quy định điều chỉnh quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Điều này có nghĩa là đã tạo ra sự phân biệt trong điều chỉnh quan hệ bồi thường giữa các chủ thể: các quan hệ giữa công dân với công dân và các quan hệ giữa Nhà nước với công dân.
Nhà nước khi tham gia vào các quan hệ pháp luật thì có thể mang tư cách là một chủ thể thông thường là chủ thể của pháp luật tư và tư cách của chủ thể của quyền lực công. Những quan hệ pháp luật mà Nhà nước tham gia với tư cách là chủ thể mang quyền lực công không phải là những quan hệ dân sự. Những quan hệ pháp luật này là những quan hệ pháp luật có liên quan đến việc thực hiện những hoạt động thuộc về chức năng quản lý, điều hành hành chính, mang quyền lực của Nhà nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện những hoạt động này mà Nhà nước gây thiệt hại cho các cá nhân, tổ chức, thì giữa Nhà nước và bên bị thiệt hại phát sinh một loại quan hệ pháp luật mới, theo đó Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại đã gây ra. Quan hệ pháp luật này, xét về bản chất là quan hệ pháp luật dân sự, mặc dù nó phát sinh từ hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước.